Báu vật vô giá Hưng Đạo vương Trần Quốc Tuấn đã để lại cho hậu thế

Ba lần đánh bại quân Nguyên Mông, Hưng Đạo vương Trần Quốc Tuấn, vị tướng kiệt xuất bậc nhất trong lịch sử dân tộc Việt, đã để lại di sản vô giá cho hậu thế. Đó chính là tấm lòng trung nghĩa, tận tuỵ báo quốc, là khí phách bất phàm của một bậc chính nhân quân tử.

"Ta thường tới bữa quên ăn, nửa đêm vỗ gối, ruột đau như cắt, nước mắt đầm đìa; chỉ căm tức chưa được xả thịt, lột da, nuốt gan, uống máu quân thù. Dẫu cho trăm thân này phơi ngoài nội cỏ, nghìn xác này gói trong da ngựa, ta cũng vui lòng".

Đây có thể coi là một trong những câu nói nổi tiếng nhất của Hưng Đạo vương Trần Quốc Tuấn – vị tướng soái kiệt xuất bậc nhất trong lịch sử dân tộc Việt Nam. Tuy nhiên, nó chưa thể lột tả hết con người bậc đại nhân, đại trí, đại dũng ấy.

Theo Đại Việt sử ký toàn thư, Hưng Đạo vương là con của An Sinh vương Trần Liễu, anh ruột vua Trần Thái Tông. Mẹ ông là Thiên Đạo quốc mẫu. Từ nhỏ, Hưng Đạo vương có dung mạo khôi ngô, thông minh hơn người lại được thầy tài giỏi dạy dỗ nên sớm đọc thông hiểu rộng, văn võ toàn tài.

Những đóng góp của ông cho lịch sử nước nhà xứng đáng được người đời truyền tụng khi ông 3 lần lãnh đạo quân dân nhà Trần chiến thắng đội quân Nguyên - Mông hùng mạnh nhất thế giới thời bấy giờ (1258-1285-1288).

Biểu tượng của Trung nghĩa

An Sinh vương Trần Liễu vốn có hiềm khích với vua Trần Thái Tông. Trước lúc qua đời, ông dặn Hưng Đạo vương: “Con không vì cha lấy được thiên hạ, thì cha chết dưới suối vàng cũng không nhắm mắt được”. Chiều lòng cha, Hưng Đạo vương gật đầu nhưng trong bụng vẫn không cho đó là điều nên làm.

Đến khi vận nước lung lay, quân quyền đều nằm trong tay mình, ông đưa chuyện này ra hỏi hai gia thần thân tín là Yết Kiêu và Dã Tượng. Họ đáp: “Làm kế ấy tuy được phú quý một thời nhưng để lại tiếng xấu ngàn năm. Nay Đại Vương há chẳng đủ phú và quý hay sao? Chúng tôi thề xin chết già làm gia nô, chứ không muốn làm quan mà không có trung hiếu”.

Nghe xong, Hưng Đạo vương cảm động, khen ngợi hai người.

Vị tướng kiệt xuất cũng từng hỏi con trai về ngôi báu. Khi nghe câu trả lời ngụ ý muốn cướp ngôi của Trần Quốc Tảng, ông nổi giận, rút gươm toan chém chết Quốc Tảng: "Tên loạn thần là từ đứa con bất hiếu mà ra”.

Cuối cùng, dưới sự can ngăn của mọi người, ông thay đổi ý định nhưng từ đó kiên quyết không gặp Tảng, thậm chí dặn dò sau này ông chết, đậy nắp quan tài rồi mới cho Tảng vào viếng.

Tấm lòng rộng lớn, sẵn sàng gạt bỏ hiềm khích cá nhân vì lợi ích dân tộc

Khi vó ngựa Mông Cổ đã phạm vào bờ cõi, việc quan trọng nhất chính là đoàn kết lòng người, chung sức đánh giặc. Là Quốc Công tiết chế, Hưng Đạo vương đã làm được những điều khó tưởng tượng nhất để thu phục nhân tâm.

Ông vốn có hiềm khích từ đời trước với Thượng tướng thái sư Trần Quang Khải. Nhưng khi nhận ra nếu hai người không đồng lòng chung sức thì chỉ có lợi cho quân thù, ông đã chủ động hòa hảo với Trần Quang Khải.

Một lần Hưng Đạo vương mời Thượng tướng lên thuyền chuyện trò. Nhìn nồi nước thơm ngát ở đầu thuyền, Hưng Đạo vương nói : "Biết ông bận nhiều việc đôi khi quên cả tắm, gia tướng Yết Kiêu có ý chuẩn bị cho cả hai ta...Rất hân hạnh được hầu tắm Thượng tướng." Quang Khải vừa bất ngờ, vừa cảm phục cũng đáp lại: "Tôi cũng rất sung sướng được Quốc công tắm rửa cho." Từ đó, hai người xoá bỏ mọi nghi kỵ, thường đi lại thân thiết với nhau, tình như thủ túc.

Sống không chỉ để hưởng thụ

Một trong những điều làm nên chiến thắng lừng lẫy của quân dân nhà Trần trong 3 cuộc chiến đấu chống đội quân thiện chiến nhất thời bấy giờ là sự chuẩn bị kỹ càng về mọi mặt.

Trong Thuyết Trần, Trần Xuân Sinh ghi: “Trước sự bành trường của nhà Nguyên, nhà Trần đã đề phòng, chuẩn bị kháng cự. Trần Quốc Tuấn mở trường dạy võ, dạy con em hoàng tộc và những người tài giỏi trong nước. Ông thường đi khắp các lộ, kiểm soát các giảng võ đường địa phương, thu dụng nhiều người tài giỏi trong nước như Yết Kiêu, Dã Tượng, Phạm Ngũ Lão, Nguyễn Chế Nghĩa, Đỗ Hành...”.

Sau chiến thắng quân Mông Cổ lần thứ nhất, thay vì tận hưởng cảnh thái bình với chức cao, lộc lớn, Hưng Đạo vương vẫn đốc thúc quân sĩ luyện tập không ngừng nghỉ. Cuộc đời vẻ vang cùng những chiến công hiển hách của Hưng Đạo vương là kết quả của quá trình rèn luyện, cống hiến suốt đời.

Ông chỉ trích lối sống hưởng thụ của quân sĩ: “Có kẻ lấy việc chọi gà làm vui; có kẻ lấy việc cờ bạc làm thích. Có kẻ tính đường sản nghiệp mà quên việc nước; có kẻ ham trò săn bắn mà trễ việc quân. Có kẻ thích rượu ngon; có kẻ mê giọng nhảm.... Nếu bất chợt có giặc Mông Thát tràn sang thì cựa gà trống không đủ đâm thủng áo giáp của giặc; mẹo cờ bạc không đủ thi hành mưu lược nhà binh. Tiền của dẫu lắm không mua được đầu giặc; chó săn tuy hay không đuổi được quân thù. Chén rượu ngọt ngon không làm giặc say chết; giọng hát réo rắt không làm giặc điếc tai”.

Gương sáng soi kim cổ

Hưng Đạo vương chính là biểu tượng của Trung nghĩa, là người đặt định ra nội hàm của chữ "Trung" trong cổ sử Việt Nam.

Với quyền lực của một Quốc công, nắm trong tay binh quyền cả nước, Hưng Đạo vương thực sự chỉ cần hô một tiếng thì chính biến lúc nào cũng có thể xảy ra. Nhưng ông không chọn con đường bất trung, bất nghĩa ấy, dù đó có là lời trăn trối của cha ruột trước lúc ra đi. Hưng Đạo vương phò tá 3 đời vua Trần (Thái Tông, Thánh Tông và Nhân Tông) không một phút sơ suất. Dù lập đại công nhưng Hưng Đạo vương không vì thế mà trở nên kiêu ngạo, trái lại càng khiêm nhường, thủ tiết vững hơn.

Vua Trần phong Hưng Đạo vương là Thượng Quốc công, có quyền được phong tước cho bất kỳ ai từ hầu trở xuống mà không cần phải xin chiếu chỉ, ngay cả tước hầu cũng là phong trước tâu sau. Dù thế, cả đời ông chưa từng phong tước cho bất kỳ ai, kể cả con cháu thân tộc.

Người ta vẫn thường truyền tụng nhau một câu “Quân tử báo thù 10 năm chưa muộn”. Nhưng đó chỉ là một thứ quan điểm cứng nhắc. Với Hưng Đạo vương, quân tử chính là bỏ thù riêng, lo việc nước, cứu nước, an dân, giúp vua chống cường địch, trị thiên hạ.

Hưng Đạo đại vương Trần Quốc Tuấn  đã để lại cho hậu thế “Binh thư yếu lược”, là tâm huyết cả một đời chinh chiến trận mạc của mình. Nhưng đó chưa phải là điều đáng quý nhất. Di sản lớn nhất của ông chính là tấm lòng trung nghĩa, tận tuỵ báo quốc, là khí phách bất phàm của một bậc chính nhân quân tử.

Nguồn: Tổng hợp

T.LN