Đại học tư: tồn tại như thế nào?

(CTG) Dự thảo luật Giáo dục đại học đang ở giai đoạn hoàn thiện cuối trước khi trình Quốc hội (dự kiến thông qua trong kỳ họp tới). Sau nhiều sự cố đáng tiếc liên quan đến các đại học tư vừa qua, câu hỏi đặt ra không phải là đại học tư: tồn tại hay không tồn tại (vì nó đã tồn tại rồi, đang gia tăng về số lượng). Câu hỏi là nên nhìn nhận như thế nào về sự tồn tại của đại học tư, để cùng với đó, là sự hoàn thiện cơ chế pháp lý, giám sát và cả… tâm lý xã hội.




Đại học dân lập Hùng Vương (TP.HCM) bị đình chỉ tuyển sinh tháng 3.2012 vì nhiều sự cố.

Phát triển tương đối mạnh từ mấy năm trở lại đây, nhưng cho đến nay, các trường tư, bao gồm các đại học tư, ở Việt Nam vẫn chưa có được một chỗ đứng vững chắc cả trong luật và trong suy nghĩ của con người. Thậm chí còn có thể ghi nhận sự phổ biến không biết từ lúc nào của những định kiến xã hội rất ngặt nghèo đối với trường tư về nhiều phương diện: chất lượng đào tạo, khía cạnh đạo đức trong quan hệ thầy và trò, uy tín xã hội...

Các định kiến ấy tất yếu tạo ra xu hướng phân biệt đối xử trong tuyển dụng sinh viên đại học tốt nghiệp tuỳ theo nơi xuất xứ của họ là trường công hay trường tư, được ghi nhận rõ nét trong khu vực công và cả trong các doanh nghiệp nhà nước: ứng viên từ trường tư thường được tiếp đón và đối xử với thái độ dè dặt, nghi ngại về kiến thức, phẩm chất nghề nghiệp. Trong điều kiện khu vực công đang chiếm lĩnh một phần lớn nhu cầu sử dụng lao động có trình độ cao, điều này càng khiến lộ trình tự khẳng định của trường tư như là một nhân tố tích cực trong việc phát triển sự nghiệp giáo dục càng thêm gai góc, khó khăn.

Có điều chắc chắn là giáo dục ở Việt Nam không cần và không nên là lĩnh vực thuộc độc quyền nhà nước. Dù có tốc độ tăng trưởng kinh tế không đến nỗi nào, Việt Nam vẫn còn là một nước nghèo, chưa đủ sức xây dựng một kiểu nhà nước phúc lợi chung như ở Tây Âu, có khả năng bao biện việc đầu tư vào mọi lĩnh vực mang tính chất lợi ích cộng đồng.

Vả lại, do được nuôi dưỡng quá lâu trong cơ chế quan liêu bao cấp, nhiều trường công tỏ ra đủng đỉnh, nếu không muốn nói là ì ạch trong việc tiếp nhận quy chế tự chủ. Đặc biệt tâm lý ỷ lại vào đầu tư công khiến không ít trường công tỏ ra rất kém năng động trong việc xây dựng và khai thác các nguồn lực đa dạng trong xã hội, nhằm thúc đẩy sự phát triển của cơ sở.

Chưa nói đến chuyện cũng do quá lâu được thừa nhận (thậm chí được bảo đảm) giữ vai trò độc quyền trong lĩnh vực giáo dục, các trường công tự nhiên nuôi dưỡng tư tưởng tự mãn đặc trưng của người đứng một mình một chợ.

Trong khung cảnh đó, sự phát triển đại học tư có thể được nhìn nhận để khuyến khích, như là cách đánh thức đại học công khỏi giấc ngủ đông để tự nhìn lại mình, rồi phải tự hoàn thiện để sinh tồn. Việc sử dụng khu vực tư như chất xúc tác kích thích sự phát triển của khu vực công đã được kiểm chứng về hiệu quả trong lĩnh vực kinh tế: chính sự lớn mạnh nhanh chóng, và nhất là sự năng động của kinh tế tư nhân đã làm lộ rõ những khuyết tật vốn đã tồn tại từ nhiều năm của các doanh nghiệp nhà nước, từ đó đặt những người hoạch định chính sách và bản thân các doanh nghiệp nhà nước dưới sức ép đổi mới. Tất nhiên, đổi mới được hay không là chuyện khác; nhưng chắc chắn sức ép là có thật.

Có ý kiến quan ngại rằng trong thời gian vừa qua không ít đại học tư chỉ chạy theo lợi nhuận mà không quan tâm đến chất lượng đào tạo, thậm chí đến các chuẩn mực đạo đức đặc thù của môi trường giáo dục; hậu quả là những điều tiếng không hay về nạn mua điểm, bán bằng gắn với trường này, trường nọ. Trong bối cảnh đó, việc tạo điều kiện phát triển đại học tư cũng có thể đồng nghĩa với tạo điều kiện cho sự bùng phát các hiện tượng tiêu cực ảnh hưởng xấu đến diện mạo nền giáo dục của quốc gia.

Đúng là chất lượng của không ít đại học tư ở trong tình trạng bị (hay được) thả nổi; nhưng, vấn nạn này cũng đâu có tha các trường đại học công lập. Thực ra, tệ nạn học giả bằng thật, nói chung, sự hoành hành của các loại ứng xử, giao tiếp phi chuẩn mực, phi đạo đức là tệ nạn chung của cả nền giáo dục chứ không riêng giáo dục đại học và càng không phải của riêng đại học tư. Nguyên nhân sâu xa của sự xuống cấp chất lượng giáo dục, chất lượng đạo đức trong môi trường học đường. giảng đường không chỉ đơn giản là thói hám lợi của các nhà đầu tư vào lĩnh vực giáo dục; nó có mối liên hệ mật thiết với những khuyết tật của hệ thống quản lý xã hội đang vận hành, đặc biệt là với nạn tham nhũng và hối mại quyền thế. Việc khắc phục nguyên nhân đó, suy cho cùng, là việc được thực hiện trên quy mô toàn hệ thống quản lý chứ không phải là việc riêng của ngành giáo dục.


Theo SGTT