![]() |
Quê tôi nằm bên bờ dòng sông La êm đềm, quanh năm chỉ có nghề nông. Ký ức tuổi thơ thì có nhiều, nhưng đọng lại sâu đậm nhất vẫn là hương vị chè xanh trong những buổi tối thơm mùi rơm rạ. Chè xanh quê tôi không uống bằng chén mà uống bằng bát.
Cha tôi để riêng một bộ bát sứ màu nâu đất chỉ để mời khách. Chè dùng để pha nước là loại chè cả cành, còn tươi, mà phải là cành già, lá sậm màu, được trồng trên đồi. Việc mời uống hè chẳng có sự phân công nào, nhưng các gia đình trong xóm cứ thay phiên nhau.
Người quê tôi không gọi là nấu nước chè mà gọi là om chè. Trước khi om, mẹ chuẩn bị sẵn một gáo nước đun sôi để nguội đặt cạnh. Chè chỉ được vò khi nước đã sôi lăn tăn, vò xong kịp lúc nước sôi sùng sục thì cho vào siêu. Nếu vò quá sớm chè sẽ mất vị thơm. Chè cho vào nồi xong, sau khi lửa bùng lên thì dội gáo nước đã chuẩn bị trước để giảm nhiệt độ.
Chè mẹ om bao giờ cũng thơm, nước xanh trong, có vị chát ngọt. Nước chè xanh om nước đầu gọi là “nước mới”. Khi cánh đàn ông hút xong điếu thuốc, cánh đàn bà ăn xong miếng trầu cũng là lúc mẹ mang nước mới lên. Không cầu kỳ, không nghi lễ, cha rót nước ra từng bát đầy sóng sánh, mời các ông, các bác cao tuổi trước rồi đến những người trẻ hơn. Mọi người vừa uống nước chè vừa trò chuyện. Lũ trẻ chúng tôi chơi đùa ở sân, nghe vị chè xanh bay lên thơm ngát.
Nhiều năm xa quê, ký ức về hương vị chè xanh của mẹ vẫn không thể nào nhạt phai. Dạo trước, mỗi lần về, cha thường bảo tôi đi mời hàng xóm đến uống nước mới. Nhưng mấy năm gần đây, cha hay ngồi một mình trước bộ bát uống chè đã cũ sờn. Dáng vẻ trầm ngâm, tư lự. Cha nói rằng: bây giờ kinh tế phát triển, người ta mời nhau uống rượu bia, chả ai mời nước mới nữa. Chợt thấy cha im lặng, trong mắt cha dường như có nỗi buồn nào đó bay theo làn khói chè xanh.
Theo CSTĐ |