Cuốn nhật ký và tấm ảnh chân dung của tác giả - Ảnh: Đỗ Trường |
Khoảng giữa năm 2012, cuốn nhật ký được phát hiện trong một ngôi mộ tại nhà ông Huỳnh Văn Sáng (73 tuổi, ngụ ấp Xóm Đèn, xã Tân Mỹ, H.Tân Uyên, Bình Dương), sau đó được xác định tác giả là liệt sĩ Lê Thị Thiên. Liệt sĩ, nhà giáo Lê Thị Thiên sinh năm 1945 tại ấp Bà Bèo, xã Mỹ Phước Tây, H.Cai Lậy (Tiền Giang); nhập ngũ ngày 8.2.1962, hy sinh ngày 10.10.1966 tại chiến trường miền Đông. Chức vụ lúc hy sinh: trung sĩ.
Cuốn nhật ký xúc động |
Nhật ký dày 35 trang, dù bị chôn vùi hơn 46 năm qua nhưng từng nét chữ và những tấm ảnh được bọc bằng ni lông vẫn còn nguyên vẹn.
Theo ông Sáng, khoảng từ năm 1966, khu vực ấp Xóm Đèn (xã Tân Mỹ) quê ông bị địch mở trận càn quét tấn công lớn nhằm vào Chiến khu Đ, hòng tiêu diệt căn cứ của ta. Trong trận giao tranh ác liệt, mặc dù chiến thắng nhưng quân ta cũng hy sinh không ít. Thời điểm đó, ông Sáng là bộ đội tham gia chiến dịch chống càn quét của địch đã cùng người dân xã Tân Mỹ đi thu gom được 6 người hy sinh trong trận đánh, mang về chôn cất ở khu đất của gia đình. Ông Sáng cho biết, lúc đó tự tay ông an táng cho 2 chiến sĩ tên Anh và Cần.
Do đó, khi phát hiện cuốn nhật ký, ông Sáng nhớ ngay đến những người đã hy sinh trên mảnh đất quê hương mình. Nhận thấy nội dung nhật ký mang nhiều ý nghĩa, nhưng lại không ghi rõ tên tuổi, quê quán, đơn vị công tác..., ông Sáng quyết định gửi Báo Bình Dương và Ban Tuyên giáo Tỉnh ủy Bình Dương, với mục đích tìm ra chủ nhân của cuốn nhật ký.
Lý tưởng sống cao đẹp
Những dòng nhật ký đầu tiên được tác giả viết vào tháng 12.1962 và đến ngày 20.10.1966 là dòng nhật ký cuối cùng.
Mở đầu cuốn nhật ký viết: “Tháng 12.1962: Rời mái trường trở về địa phương tham gia cách mạng. Vừa dạy học, vừa tham gia các mặt công tác kháng chiến ở địa phương”. Điều này cho thấy tác giả cuốn nhật ký xuất thân từ sinh viên và làm giáo viên, sau đó xung phong tham gia kháng chiến.
Xuyên suốt cuốn nhật ký là một lý tưởng sống cao đẹp và tình yêu quê hương đất nước của tác giả. Mặc dù phải đi chiến đấu xa nhưng vẫn luôn hướng về quê nhà, dòng nhật ký viết: “Ngày 26.7.1964: Được tin giặc càn bố xã nhà, M. cảm thấy buồn và lo lắng nhiều. Không biết bà con ở đây ra sao? Gia đình M. thế nào? Sốt ruột mong biết tin”. Nhiều dòng nhật ký trong những ngày tháng tiếp theo là tự sự của tác giả: “Ta hằng nghĩ về Tổ quốc nhiều hơn, vì Tổ quốc. Tuổi còn trẻ, đời còn dài, vì Tổ quốc hãy nghĩ đến Tổ quốc hơn...”.
Qua những dòng nhật ký, nét chữ, ý tứ sâu sắc cho thấy tác giả là người được đào tạo căn bản, suy nghĩ chín chắn, biết hy sinh, vượt qua sự đau đớn của bản thân để vươn lên. “Ngày 11.2.1965: 2 ngày qua, M. bị đau, không học hành được gì. Uống thuốc đã đỡ nhưng vẫn mệt nhiều. Cố đấu tranh tư tưởng để vượt qua cơn bệnh, học tập tích cực hơn. Vì không còn bao lâu nữa M. sẽ về địa phương công tác, va chạm vào thực tế. Trong thời gian ở đây, M. cần trui rèn tư tưởng chuẩn bị sẵn sàng để trở về tiếp nhận môi trường mới”.
Không những thế, tác giả còn viết lên những câu thơ hay, đượm chất anh hùng cách mạng. Bài thơ có đoạn: “Ngày 17.10.1966 tặng H, người em cùng quê: Em hỡi! Em ơi! Em nghĩ gì/Rộn ràng phấn khởi hay sầu bi/Hãy nghĩ đến ngày mai tươi sáng/Miền Nam ta giải phóng tự do/Cùng nhau vui hát bài ca thanh bình/Em hỡi sao em không nói/Nói đi em chị lắng nghe đây/Nghe em kể lại những ngày...”.
Phấn đấu trở thành người toàn diện |