“Việt Nam ứng phó với biến đổi khí hậu” - Từ nhận thức đến hành động

(CTG) Trong khuôn khổ diễn đàn “Xây dựng chương trình hành động thanh niên ứng phó biến đổi khí hậu” do Trung ương Hội LHTN Việt Nam phối hợp với Cục Khí tượng Thủy văn và Biến đổi khí hậu (Bộ Tài nguyên và Môi trường) và Hiệp hội Làng nghề Truyền thống Việt Nam tổ chức, Cổng tri thức Thánh Gióng phối hợp với VOVNews và Trung tâm Phát triển Nông thôn bền vững (SRD) tổ chức giao lưu trực tuyến “Việt Nam ứng phó với biến đổi khí hậu” bắt đầu từ 16 giờ đến 17 giờ ngày 14/7/2010 tại Khách sạn Khăn Quàng Đỏ (Hà


Chương trình nhằm trao đổi những thông tin về vấn đề biến đổi khí hậu (BĐKH), kỹ năng cần thiết để  bảo vệ môi trường và hưởng ứng các hoạt động ứng phó với biến đổi khí hậu toàn cầu; cung cấp những thông tin hữu ích liên quan đến vấn đề BĐKH; ảnh hưởng của BĐKH tại Việt Nam và các biện pháp ứng phó của Nhà nước, các cơ quan hữu quan; hành động của các tổ chức xã hội dân sự Việt Nam trước thực trạng trên…

 Buổi giao lưu với sự tham gia của các vị khách mời:  Ông Trương Đức Trí, Ủy viên Đoàn Chủ tịch Ủy ban Trung ương Hội LHTN Việt Nam, Bí thư Đoàn thanh niên Bộ Tài nguyên và Môi trường, Thư ký Văn phòng Chương trình mục tiêu Quốc gia ứng phó với Biến đổi Khí hậu; ông Hoàng Mạnh Hòa, Trưởng phòng Biến đổi Khí hậu, Cục Khí tượng Thủy văn và Biến đổi khí hậu; ông Hoàng Đức Cường, Viện Khoa học Khí tượng Thủy văn và Môi trường; TS. Vũ Văn Triệu, thành viên Ban cố vấn Trung tâm phát triển Nông thôn bền vững (SRD); bà Hồ Thị Yến Thu, Phó Giám đốc Trung tâm Bảo tồn sinh vật biển và phát triển cộng đồng (MCD; ông Vũ Xuân Việt, Giám đốc Dự án tổ chức Oxfam (Anh) .

Sau đây là nội dung chính buổi giao lưu trực tuyến “Việt Nam ứng phó với Biến đổi khí hậu”. 



Các vị khách mời tham gia giao lưu tại hội trường


Biến đổi khí hậu - Không phải ai cũng hiểu?

Bạn Đinh Thị Dịu (Hà Nam): Cháu là sinh viên ngành sư phạm kĩ thuật. cháu muốn hỏi về khái niệm thế nào là BĐKH và nội dung về biến đổi khí hậu?
Ông Hoàng Đức Cường: BĐKH là sự biến đổi trạng trái của khí hậu so với trung bình và dao động của khí hậu duy trì trong một khoảng thời gian dài, thường là vài thập kỷ hoặc dài hơn. BĐKH có thể là do các quá trình tự nhiên hoặc do hoạt động của con người làm thay đổi thành phần của khí quyền. Biểu hiện rõ rệt nhất của BĐKH là nhiệt độ tăng, lượng mưa thay đổi và mực nước biển dâng. Ngoài ra, một số hiện tượng thời tiết cực đoan gia tăng về tần suất và cường độ.

Cao Phi (Đà Lạt): Tại sao chúng ta có thể khẳng định các hoạt động của con người có ảnh hưởng tới Biến đổi khí hậu (BĐKH)?
Ông Trương Đức Trí : Biến đổi khí hậu do hai nguyên nhân: do những quá trình trong tự nhiên và do ảnh hưởng của con người Tự nhiên: là sự biến động của cường độ bức xạ mặt trời chiếu xuống trái đất Nhân tao: hoạt động của con người làm tăng nồng độ khí nhà kính. Đặc biệt là CO2 được tạo thành do sử dụng năng lượng hóa thạch (như dầu mỏ, than đá, khí tự nhiên...), phá rừng và chuyển đổi sử dụng đất. Biến đổi khí hậu xảy ra mạnh mẽ kể từ cuối thế kỷ 19, khi công nghiệp phát triển, theo ước tính, các hoạt động của con người đóng góp một phần lớn nguyên nhân gây ra BĐKH.

Thanh Hải (Cà Mau): Xin hỏi các vị đại biểu thế nào là thích ứng với BĐKH?
Ông Trương Đức Trí: Thích ứng với biến đổi khí hậu là sự điều chỉnh hệ thống tự nhiên hoặc con người đối với hoàn cảnh hoặc môi trường thay đổi, nhằm mục đích giảm khả năng bị tổn thương do dao động và biến đối khí hậu hiện hữu hoặc tiềm tàng và tận dụng các cơ hội do nó mang lại.

Phong Hoàng (Bình Phước): Thế nào là giảm thiểu BĐKH?
Ông Hoàng Mạnh Hòa: Giảm thiểu biến đổi khí hậu là các hoạt động, các phương án nhằm giảm mức độ hoặc cường độ phát thải khí nhà kính. 

Như Lâm đến từ Long An: Ở Việt Nam, ngoài những ảnh hưởng do mực nước biển dâng gây ra, BĐKH có thể có những ảnh hưởng nào khác nữa?
Ông Hoàng Mạnh Hòa: Biến đổi khí hậu ngoài việc làm nước biển dâng còn tác động đến các lĩnh vực chủ yếu như: Nông nghiệp, Lâm nghiệp, Quản lý tài nguyên nước, Thủy sản, Năng lượng, Giao thông Vận tải, Xây dựng, Du lịch và sức khỏe cộng đồng.



Bà Hồ Thị Yến Thu cùng phóng viên Cổng tri thức Thánh Gióng trả lời bạn đọc

Hiểm họa khôn lường…

Nguyễn Thanh Tùng (Hưng Yên): Xin các vị đại biểu cho biết BĐKH có thể ảnh hưởng tới sức khỏe của người dân như thế nào? Những bệnh nào thường xảy ra do BĐKH?
Ông Hoàng Mạnh Hòa: Nhiệt độ gia tăng làm tăng tác động tiêu cực lên cơ thể con người, nhất là dối với người già, người mắc bệnh tim mạch, bệnh thần kinh. Biến đổi khí hậu làm tăng bùng phát một số bệnh truyền nhiễm như bệnh sốt rét, sốt xuất huyết, viêm não, bệnh virus và làm bệnh tiêu chảy gia tăng. Nước biển dâng làm đời sống nhân dân ở khu vực bị tác động thêm khó khăn, ảnh hưởng đến sức khoẻ.

Cao Thanh Hải (Yên Bái): Một bộ phận lớn dân số của Việt Nam sống ở khu vực miền núi. BĐKH có ảnh hưởng như thế nào đến bộ phận dân cư này?
Ông Hoàng Mạnh Hòa: Ở khu vực miền núi, nhân dân bị tác động bởi biến đổi khí hậu thông qua nhiệt độ và lượng mưa, bão lũ gia tăng, đặc biệt là lũ quét. Biến đổi khí hậu ảnh hưởng đến sự sinh trưởng của cây trồng. Phần lớn nhân dân sống ở vùng miền núi đời sống còn nhiều khó khăn, khả năng thích ứng với biến đổi khí hậu còn yếu.

Ngoc Thuy (Vĩnh Long): Em được biết, việc biến đổi khí hậu sẽ làm mất đi các tỉnh đồng bằng sông Cửu Long. Xin các đại biểu cho em được biết rõ thêm thông tin này.
Ông Hoàng Đức Cường: Theo các tính toán của Bộ Tài nguyên và Môi trường, với kịch bản nước biển dâng cao nhất là 1m vào năm 2100 thì diện tích đồng bằng sông Cửu Long bị ngập khoảng 15.000km2, chiếm 38% diện tích khu vực. Theo kết quả này, chưa tính đến hiệu ứng kết hợp với nước dâng do thủy triều, bão, sóng…

Thanh Phương (Quảng Ngãi): Biến đổi khí hậu sẽ ảnh hưởng như thế nào đến các tỉnh ven biển như đối với các tỉnh bọn em ạ?
Tiến sĩ Vũ Văn Triệu: Các tỉnh ven biển như Quảng Ngãi sẽ hứng chịu nhiều trận bão với cường độ lớn hơn, mực nước biển sẽ ngày càng dâng cao nên nước biển sẽ theo các cửa sông đi sâu vào đất liền làm mặn hóa nhiều vùng trồng lúa; hiện tượng xói lở bờ biển sẽ ngày càng khốc liệt hơn; các công trình ven biển sẽ bị đe dọa nhiều hơn.



Chăm chú theo dõi câu hỏi...

…và hành động của chúng ta

Phi Hùng (Thái Bình): Kính thưa ông Trương Đức Trí, ông có thể cho biết Chương trình mục tiêu quốc gia ứng phó với Biến đổi khí hậu là gì?
Ông Trương Đức Trí: Chương trình Mục tiêu Quốc gia Ứng phó với Biến đổi khí hậu của Việt Nam Trong thời gian qua, theo tinh thần của Nghị quyết số 60/2007/NQ-CP ngày 03 tháng 12 năm 2007 của Chính phủ , Bộ TN&MT đã phối hợp với các bộ, ngành liên quan xây dựng Chương trình Mục tiêu Quốc gia Ứng phó với Biến đổi khí hậu (CTMT). Chương trình đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt ngày 02.12.2008 và trở thành định hướng và chiến lược cơ bản quốc gia để ứng phó với BĐKH.

Mục tiêu của Chương trình:
A. Mục tiêu chiến lược: Đánh giá được mức độ tác động của biến đổi khí hậu đối với các lĩnh vực, ngành và địa phương trong từng giai đoạn và xây dựng được kế hoạnh hành động có tính khả thi để ứng phó hiệu quả với biến đổi khí hậu cho từng giai đoạn ngắn hạn và dài hạn nhằm đảm bảo sự phát triển bền vững của đất nước, tận dụng các cơ hội phát triển theo hướng các bon thấp và tham gia cùng cộng đồng quốc tế trong nỗ lực giảm nhẹ BĐKH, bảo vệ hệ thống khí hậu trái đất.

B. Mục tiêu cụ thể:
1) Đánh giá được mức độ biến đổi của khí hậu Việt Nam do BĐKH toàn cầu và mức độ tác động của BĐKH (bao gồm cả biến động khí hậu, nước biển dâng và các hiện tượng khí tượng cực đoan) đối với các lĩnh vực, ngành và các địa phương; 2) Xác định được các giải pháp ứng phó với BĐKH; 3) Tăng cường được các hoạt động KHCN nhằm xác lập các cơ sở khoa học và thực tiễn cho các giải pháp ứng phó với BĐKH; 4) Củng cố và tăng cường được năng lực tổ chức, thể chế, chính sách về BĐKH;  5) Nâng cao được nhận thức, trách nhiệm tham gia của cộng đồng và phát triển nguồn nhân lực;  6) Tăng cường được hợp tác quốc tế nhằm tranh thủ sự giúp đỡ, hỗ trợ của quốc tế trong ứng phó với BĐKH; tận dụng các cơ hội phát triển theo hướng các bon thấp; góp phần cùng cộng đồng quốc tế giảm nhẹ BĐKH và bảo vệ hiệu quả hệ thống khí hậu toàn cầu; 7) Tích hợp được yếu tố BĐKH vào các chiến lược, quy hoạch và kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội, phát triển ngành và các địa phương; 8) Xây dựng và triển khai được các kế hoạch hành động của các bộ/ngành và địa phương ứng phó với BĐKH; triển khai được các dự án thí điểm. Các nhiệm vụ chủ yếu của chương trình Chương trình được triển khai theo hướng kết hợp nghiên cứu với thực hiện các giải pháp ứng phó. Trong khi các kịch bản về BĐKH, đặc biệt là nước biển dâng, phải được sớm hoàn thiện để trên cơ sở đó các bộ,ngành và địa phương xây dựng kế hoạch hành động của mình, thì cần ưu tiên triển khai thực hiện ngay các hoạt động ứng phó với BĐKH, đặc biệt là phòng chống và giảm nhẹ thiên tai, cho các lĩnh vực, ngành, địa phương nhạy cảm và dễ bị tổn thương do BĐKH gây ra như: tài nguyên nước, nông nghiệp và an ninh lương thực, năng lượng, xây dựng, giao thông vận tải, y tế và sức khoẻ; các vùng đồng bằng và dải ven biển.

1. Đánh giá mức độ và tác động của biến đổi khí hậu ở Việt Nam: Nhiệm vụ trọng tâm cần thực hiện ngay là đánh giá diễn biến khí hậu; xây dựng các kịch bản BĐKH, đặc biệt là nước biển dâng, và đánh giá tác động của BĐKH (bao gồm cả biến động khí hậu, nước biển dâng và các hiện tượng khí tượng cực đoan) đến các lĩnh vực, các ngành và các địa phương. 
2. Xác định các giải pháp ứng phó với biến đổi khí hậu Trên cơ sở kết quả đánh giá tác động của BĐKH và khả năng tổn thương do BĐKH đối với các lĩnh vực/ngành và địa phương, xây dựng và lựa chọn các giải pháp ứng phó với BĐKH.
3. Xây dựng chương trình khoa học công nghệ về biến đổi khí hậu Xây dựng và triển khai chương trình khoa học công nghệ quốc gia nhằm cung cấp cơ sở khoa học cho việc xây dựng các thể chế, chính sách và kế hoạch hành động ứng phó với BĐKH; tham gia tích cực vào các hoạt động hợp tác quốc tế về BĐKH; nghiên cứu và triển khai sử dụng năng lượng hiệu quả và tiết kiệm; phát triển công nghệ năng lượng sạch; tăng cường năng lực ứng phó với BĐKH trong các bộ, ngành.
4. Tăng cường năng lực tổ chức, thể chế, chính sách về biến đổi khí hậu Rà soát hệ thống pháp luật, chính sách hiện hành, đánh giá mức độ quan tâm đến yếu tố BĐKH trong các văn bản pháp luật và chính sách của Nhà nước, từ đó xác định những văn bản cần ban hành, cần sửa đổi bổ sung và những nội dung cần bổ sung để nâng cao trách nhiệm của các ngành, các cấp. Xây dựng, bổ sung, hoàn chỉnh hệ thống văn bản qui phạm pháp luật liên quan đến ứng phó với BĐKH và các cơ chế chính sách khác có liên quan; đảm bảo các cơ sở pháp lý để triển khai các hoạt động, chú trọng các định chế tích hợp yếu tố BĐKH vào các chiến lược, quy hoạch và kế hoạch phát triển KT-XH, phát triển ngành và địa phương. Xây dựng cơ chế khuyến khích việc phối hợp thực hiện Chương trình trên toàn quốc, các vùng lãnh thổ, các ngành và các thành phần kinh tế; hoàn thiện và nâng cao hiệu quả hoạt động của bộ máy tổ chức quản lý liên quan tới BĐKH từ trung ương tới địa phương.
5. Nâng cao nhận thức và phát triển nguồn nhân lực Tăng cường công tác tuyên truyền, giáo dục nâng cao nhận thức và trách nhiệm cho toàn xã hội về BĐKH; tăng cường sự phối hợp giữa các bộ, ngành trong việc hoạch định chính sách và cơ chế điều phối, sự tham gia rộng rãi của các doanh nghiệp và cộng đồng trong thực hiện các hoạt động ứng phó với BĐKH. Đẩy mạnh công tác đào tạo nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao đáp ứng yêu cầu của Chương trình qua từng giai đoạn.
6. Tăng cường hợp tác quốc tế Tăng cường hợp tác quốc tế nhằm góp phần giải quyết hai yêu cầu chính là: (1) Tranh thủ khai thác, tiếp nhận và sử dụng hiệu quả các nguồn tài trợ của quốc tế, bao gồm cung cấp tài chính, chuyển giao công nghệ mới thông qua các kênh hợp tác song phương, khu vực và đa phương và (2) Tham gia các hoạt động hợp tác khu vực và toàn cầu về BĐKH.
7. Tích hợp yếu tố biến đổi khí hậu vào các chiến lược, quy hoạch và kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội, phát triển ngành và địa phương Tích hợp yếu tố BĐKH vào các chiến lược, quy hoạch và kế hoạch phát triển KT-XH (sau đây gọi tắt là Kế hoạch phát triển) là hoạt động điều chỉnh, bổ sung Kế hoạch phát triển đó, bao gồm chủ trương, chính sách, cơ chế, tổ chức có liên quan đến việc thực hiện Kế hoạch phát triển, các nhiệm vụ và sản phẩm của kế hoạch cũng như các phương tiện, điều kiện thực hiện Kế hoạch phát triển cho phù hợp với xu thế BĐKH, các hiện tượng khí hậu cực đoan và những tác động trước mắt và lâu dài của chúng đối với Kế hoạch phát triển. Với những tác động của BĐKH, việc tích hợp yếu tố BĐKH vào Kế hoạch phát triển là sự rà soát, điều chỉnh và bổ sung các Kế hoạch phát triển đã được hoặc sẽ được ban hành có tính đến các tác động của BĐKH và các biện pháp ứng phó tương ứng. Lồng ghép việc ứng phó với BĐKH vào các Kế hoạch phát triển là triển khai sâu rộng chủ trương, đường lối của Đảng, nhà nước, là sự thể hiện trách nhiệm không những của các bộ, ngành, địa phương mà cả các doanh nghiệp và cả cộng đồng xã hội ứng phó với BĐKH. Việc tích hợp cần được tiến hành một cách toàn diện về cả ba mặt: thể chế, tổ chức và hoạt động, từ đó xác định các chỗ hổng và nhu cầu của các chương trình, chính sách hiện tại liên quan tới con người và các lĩnh vực KT-XH để điều chỉnh và bổ sung. Việc tích hợp yếu tố BĐKH vào các Kế hoạch phát triển đã được xây dựng, đang thực hiện hoặc sẽ được xây dựng và thực hiện nhằm mục đích bảo đảm tính hiệu quả và bền vững của các Kế hoạch phát triển, phòng ngừa những rủi ro có thể xảy ra đối với các kế hoạch đó do tác động của những hiện tượng khí hậu cực đoan và xu thế BĐKH dài hạn, hoặc những hậu quả chưa lường hết được về môi trường và xã hội do việc thực hiện các kế hoạch đó gây ra.
8. Xây dựng các kế hoạch hành động ứng phó với biến đổi khí hậu Dựa trên các đánh giá về diễn biến khí hậu, tác động và khả năng tổn thương theo các kịch bản BĐKH đã được thống nhất, các giải pháp thích ứng với BĐKH đã được xác định, các bộ/ngành và các địa phương xây dựng kế hoạch hành động của mình để ứng phó với BĐKH thực hiện Chương trình (gọi tắt là Kế hoạch hành động). Việc xây dựng Kế hoạch hành động phải được thực hiện từng bước theo một trình tự nhất định, bảo đảm chất lượng, tính khả thi và hiệu quả thực hiện.

Trực Ngôn (Nghệ An): Chính phủ Việt Nam đang có những biện pháp gì để giảm thiểu hiệu ứng nhà kính?
Ông Trương Đức Trí: Chính phủ Việt Nam đã và đang đưa ra nhiều biện pháp để giảm thiểu hiệu ứng nhà kính và đã được cụ thể hóa bằng các văn bản quy phạm pháp luật về Biến đổi khí hậu như: Chỉ thị số 35/2005/CT-TTg ngày 17 tháng 10 năm 2005 của Thủ tướng Chính phủ về việc Tổ chức thực hiện Nghị định thư Kyoto thuộc Công ước khung của Liên hợp quốc về Biến đổi khí hậu; Thông tư số 10/2006/TT-BTNMT ngày 12 tháng 12 năm 2006 của Bộ Tài nguyên và Môi trường Hướng dẫn xây dựng dự án Cơ chế Phát triển Sạch trong khuôn khổ Nghị định thư Kyoto; Quyết định số 47/2007/QĐ-TTg ngày 06 tháng 4 năm 2007 của Thủ tướng Chính phủ về việc Phê duyệt kế hoạch tổ chức thực hiện Nghị định thư Kyoto thuộc Công ước khung của Liên hợp quốc về Biến đổi khí hậu giai đoạn 2007 – 2010; Quyết định số 130/2007/QĐ-TTg ngày 02 tháng 8 năm 2007 của Thủ tướng Chính phủ về Một số cơ chế, chính sách tài chính đối với dự án đầu tư theo Cơ chế Phát triển Sạch; Quyết định số 997/QĐ-BTNMT ngày 12 tháng 5 năm 2008 của Bộ trưởng Bộ Tài nguyên và Môi trường Qui định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Cục Khí tượng Thủy văn và Biến đổi khí hậu; Thông tư liên tịch số 58/2008/TTLT-BTC-BTNMT ngày 04 tháng 7 năm 2008 của Bộ Tài chính và Bộ Tài nguyên và Môi trường Hướng dẫn thực hiện một số điều của Quyết định số 130/2007/QĐ-TTg ngày 02 tháng 8 năm 2007 của Thủ tướng Chính phủ về một số cơ chế, chính sách tài chính đối với dự án đầu tư theo cơ chế Phát triển Sạch; Quyết định số 158/2008/QĐ-TTg ngày 02 tháng 12 năm 2008 của Thủ tướng Chính phủ Phê duyệt Chương trình Mục tiêu Quốc gia Ứng phó với Biến đổi khí hậu.

Cách Tâm (Hà Nội):
Xin hỏi ông Hoàng Mạnh Hòa và bà Hồ Thị Yến Thu nhận định gì về công tác phối hợp, tạo điều kiện của Chính phủ với các hoạt động ứng phó với Biến đổi khí hậu của các tổ chức phi Chính phủ những năm qua (những điểm thuận lợi và khó khăn)?
Bà Hồ Thị Yến Thu: Theo tôi trong những năm qua đã có sự phối hợp giữa Chính phủ và các tổ chức phi chính phủ trong công tác bảo vệ môi trường phục vụ phát triển bền vững nói chung. Chỉ những năm gần đây thì BĐKH mới trở thành vấn đề được quan tâm nhiều ở quốc tế và Việt Nam. Chính vì vậy mà mối quan hệ giữa Chính phủ và các cơ quan phi chính phủ về vấn đề BĐKH cũng chỉ ở bước đầu nhưng đã có những hiệu quả nhất điịnh. Ví dụ Chính phủ đã tham vấn các tổ chức phi chính phủ trong quá trình xây dựng Chương trình mục tiêu Quốc gia ứng phó BĐKH, cũng như mời các đại diện các tổ chức phi chính phủ tham gia trong các đoàn công tác, hội nghị, hội thảo quốc tế ứng phó BĐKH. Trong các chương trình ứng phó BĐKH cũng đã thừa nhận vai trò của các tổ chức xã hội là 1 thành phần không thể thiếu. Tuy nhiên, hạn chế hiện nay là sự đối thoại trực tiếp giữa các cơ quan thuộc chính phủ với các tổ chức phi chính phủ về ứng phó BĐKH chưa được nhiều và chưa được sâu sắc. Đồng thời trong các chương trình hành động, việc phân vai nhiệm vụ cũng như giao nguồn lực giữa các tổ chức phi chính phủ chưa rõ ràng. Hiện tại, các tổ chức phi chính phủ liên minh trong một mạng lưới gọi là mạng lưới các tổ chức phi chính phủ về BĐKH để tìm tiếng nói chung và thông qua Hội Liên hiệp KHKT Việt Nam để đối thoại và hợp tác tốt hơn với Chính phủ trong các nỗ lực ứng phó với BĐKH.
Ông Hoàng Mạnh Hòa: Trong chương trình mục tiêu quốc gia ứng phó với Biến đổi khí hậu được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt ngày 02/12/2008, các bộ, các ngành, các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương và các tổ chức đoàn thể, các tổ chức phi chính phủ đều có trách nhiệm chủ động, phối hợp tham gia.

Công Khanh (Hà Nội): Người dân địa phương có thể làm gì để giảm lượng các-bon thải ra môi trường?
Ông Hoàng Mạnh Hòa: Người dân địa phương có thể áp dụng các phương án giảm phát thải khí nhà kính, cụ thể: - Về năng lượng: dùng bếp than mới cải tiến có hiệu suất cao; chuyển đổi sử dụng LPG thay thế than trong đun nấu hộ gia đình; tủ lạnh hiệu suất cao; đèn Compact tiết kiệm điện; điều hòa nhiệt độ hiệu suất cao; thiết bị đun nước nóng mặt trời; động cơ điện hiệu suất cao; lò gạch cải tiến (thay lò gạch thủ công); chuyển đổi sử dụng khí nén tự nhiên (CNG) thay thế dầu diesel (DO); chuyển đổi sử dụng LGP cho xe taxi (dùng xăng); đèn sodium cao áp trong chiếu sáng công cộng (thay thế đèn thủy ngân truyền thống; chuyển đổi nhiệt điện than sang khí tự nhiên; thủy điện nhỏ thay thế nhiệt điện than; điện gió thay thế nhiệt điện than; nhiệt điện trấu thay thế nhiệt điện than. - Về nông nghiệp: khí sinh học thay thế than đun nấu vùng đồng bằng; khí sinh học thay thế củi đun nấu vùng miền núi; rút cạn nước ruộng lúa theo giai đoạn vùng đồng bằng Bắc Bộ; rút cạn nước ruộng lúa theo giai đoạn vùng duyên hải Nam Trung Bộ và cung cấp bánh dinh dưỡng MUB cho bò sữa. - Về sử dụng đất, thay đổi sử dụng đất và lâm nghiệp: Bảo vệ và quản lý bền vững các rừng sản xuất hiện có; bảo vệ rừng phòng hộ hiện có; trồng rừng sản xuất gỗ lớn kết hợp với tái sinh tự nhiên; trồng rừng gỗ lớn cho chu kỳ dài; trồng rừng gỗ xẻ chu kỳ ngắn; trồng rừng gỗ giấy chu kỳ ngắn; trồng rừng chu kỳ dài có lâm sản phí gỗ; trồng rừng Tràm trên đất ngập phèn. - Xây dựng và thực hiện các dự án Cơ chế phát triển sạch (CDM).

Lê Gia Bảo (Hà Nam): Nông dân đã có những hành động gì để đối phó với những ảnh hưởng của BĐKH?
Ông Trương Đức Trí: Ở Việt Nam, những lĩnh vực/đối tượng được đánh giá là dễ bị tổn thương do BĐKH bao gồm: nông nghiệp và an ninh lương thực, tài nguyên nước, sức khoẻ, nơi cư trú, nhất là ven biển và miền núi và những người nông dân, phụ nữ và trẻ em là những đối tượng chịu tác động mạnh mẽ nhất. Hiện nay, các tỉnh, thành phố đang khẩn trương đánh giá tác động của biến đổi khí hậu đến các khu vực, các lĩnh vực nhậy cảm, dễ bị tổn thương, từ đó mới có thể đề xuất các giải pháp ứng phó có hiệu quả với biến đổi khí hậu. Thực tế cho thấy từ xa xưa cha ông ta đã có nhiều kinh nghiệm trong việc ứng phó với thiên tai, biến đổi khí hậu và đã mang lại hiệu quả to lớn. 

Tiên Tiến (Hải Phòng):
VNGO & CC vừa tổ chức Hội thảo tăng cường hợp tác giữa Phi Chính phủ & Chính phủ trong ứng phó với Biến đổi khí hậu. TS Vũ Văn Triệu có thể cho biết tình hình xây dựng kế hoạch hợp tác cụ thể cho năm nay? Hội thảo đã thống nhất nguyên tắc và cơ chế phối hợp như thế nào giữa hai bên? Những thuận lợi và khó khăn khi xây dựng và triển khai kế hoạch? 
Tiến sĩ Vũ Văn Triệu: Việc hợp tác giữa các cơ quan của Chính phủ với các tổ chức phi chính phủ là rất quan trọng. Bởi vì các cơ quan Chính phủ được giao chủ trì các chương trình, dự án trọng điểm của nhà nước thuộc Chương trình mục tiêu Quốc gia ứng phó với BĐKH, trong khi đó các tổ chức phi chính phủ với con số lên tới hàng nghìn như hiện nay đóng vai trò rất quan trọng trong việc thực hiện tại hiện trường. Về nguyên tắc, các cơ quan Chính phủ đều sẵn sàng giao cho các tổ chức phi chính phủ tham gia thực hiện một phần các chương trình, dự án nói trên. Tuy nhiên, vấn đề ở đây là cơ chế về giải ngân hiện nay không đơn giản, bởi vì các tổ chức phi chính phủ không phải là các doanh nghiệp vì vậy không thể có các hóa đơn chứng từ theo yêu cầu quản lý tiền tệ của Bộ Tài chính. Vấn đề này chắc chắn cần được thảo luận để tháo gỡ trong thời gian tới, vì việc hợp tác này rất quan trọng. Trong năm nay, chúng tôi sẽ có kế hoạch tổ chức ít nhất 2 hội thảo để bàn các vấn đề cụ thể đã nêu ở trên. 

Nguyễn Văn Khánh (Khánh Hòa): Các tổ chức phi chính phủ có thể làm gì để hỗ trợ người nghèo trước những tác động của BĐKH?
Bà Hồ Thị Yến Thu: Người nghèo là đối tượng dễ bị tổn thương nhất trước tác động của mọi biến đổi trong đó có tác động của BĐKH. Chính vì thế, người nghèo là ưu tiên hàng đầu nhận được hỗ trợ của tổ chức phi chính phủ. Các hỗ trợ đó trước tiên giúp cho người nghèo hiểu được sự hiện hữu của BĐKH. Hiểu đước tác động của BĐKH đối với sức khỏe, đời sống sinh hoạt và sản xuất của mình. Các tổ chức phi chính phủ hỗ trợ người nghèo tìm ra những sinh kế phù hợp và thích ứng được với những BĐKH và tăng sức đề kháng của từng người dân đối với những tác động tiêu cực của BĐKH thông qua các mô hình thực tiễn tại từng địa phương. Qua đó người nghèo được tăng cường năng lực, được có tiếng nói và nâng cao vị thế trong xã hội, được chuyển giao khoa học công nghệ tiên tiến và có thể tự chủ hơn trong cuộc sống của mình giảm thiểu được những sự phụ thuộc và tổn thương do BĐKH. 

Buổi giao lưu kết thúc vào 18 giờ (muộn hơn gần 1 giờ so với dự kiến) mà chúng tôi vẫn nhận được rất nhiều các câu hỏi gửi đến tham gia Chương trình giao lưu thể hiện sự  quan tâm, nhiệt huyết với vấn đề Biến đổi khí hậu và các biện pháp ứng phó...Chúng tôi sẽ tập hợp các câu hỏi chưa được trả lời và gửi đến chuyên gia để giải đáp. Mọi chi tiết bạn đọc có thể xem mục Giao lưu trực tuyến "Việt Nam ứng phó với Biến đổi khí hậu" trên
thanhgiong.vn.


CTG