Bảo đảm an sinh xã hội – mục tiêu quan trọng

(CTG) Ưu tiên kiềm chế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô, tăng trưởng hợp lý và bảo đảm an sinh xã hội… là những mục tiêu đã được xác định từ khá sớm. Trong các mục tiêu đó, bảo đảm an sinh xã hội là một mục tiêu quan trọng.




Việc bảo đảm an sinh xã hội vẫn được quan tâm và đạt được những kết quả tích cực - Ảnh minh họa


 Tính quan trọng của mục tiêu này xuất phát từ nhiều căn cứ. Nền kinh tế mà Việt Nam lựa chọn là nền kinh tế thị trường, định hướng dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh- tức là vì con người. Mục tiêu bảo đảm an sinh xã hội thường được biểu hiện bằng nhiều chỉ tiêu nhất và được lồng ghép trong hầu hết các chỉ tiêu kinh tế hàng năm và nhiều năm. Ngay những mục tiêu tổng quát nhất thì ưu tiên kiềm chế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô, tăng trưởng hợp lý cũng nhằm vào việc bảo đảm an sinh xã hội. Ngay trong những điều kiện khó khăn nhất như quý I năm 2009 hay quý I/2012, vấn đề an sinh xã hội vẫn được đặc biệt quan tâm.

Trong các năm qua và 6 tháng đầu năm, trong khi phải ưu tiên kiềm chế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô…, nhưng việc bảo đảm an sinh xã hội vẫn được quan tâm và đạt được những kết quả tích cực.

Về lao động việc làm, lực lượng lao động từ 15 tuổi trở lên tăng 1,3 triệu người, đưa tổng số lao động đang làm việc tiếp tục tăng so với các năm trước. Trong 6 tháng đã giải quyết việc làm cho khoảng 735 nghìn lao động, tăng 1,5% so với cùng kỳ năm trước và đạt 45,9% chỉ tiêu kế hoạch đề ra cho cả năm. Mặc dù tăng trưởng sản xuất kinh doanh bị suy giảm, nhưng tỷ lệ thất nghiệp, thiếu việc làm của Việt Nam vẫn thấp hơn nhiều nước, vì khi nhóm ngành công nghiệp- xây dựng gặp khó khăn, thì nông nghiệp, nông thôn đã có tác dụng thu hút trở lại để giúp giải quyết những khó khăn trên. Hỗ trợ tín dụng cho hộ đồng bào dân tộc ít người để có chỗ ở ổn định và làm ăn. Tiếp tục hỗ trợ các huyện nghèo giảm nghèo nhanh hơn, bền vững hơn. Thực hiện trợ cấp xã hội thường xuyên cho gần 2,3 triệu người thuộc nhóm đối tượng bảo trợ xã hội.

Theo báo cáo của các địa phương, trong 6 tháng qua, tổng kinh phí dành cho an sinh xã hội và giảm nghèo đạt 2,7 nghìn tỷ đồng, với các khoản, như 636 tỷ đồng quà thăm hỏi và hỗ trợ các đối tượng chính sách; 352 tỷ đồng hỗ trợ hộ nghèo; 1717 tỷ đồng cứu đói, cứu trợ xã hội khác. Số hộ thiếu đói giáp hạt giảm 30,9% lượt  hộ và giảm 30,2 lượt nhân khẩu trong dịp Tết Nguyên đán và giáp hạt đạt hỗ trợ 33 nghìn tấn gạo, với 24,4 tỷ đồng. Hỗ trợ học phí cho học sinh, sinh viên nghèo tiếp tục được triển khai, tính đến tháng 6 ước số tiền vay khoảng 43 nghìn tỷ đồng. Lương tối thiểu được điều chỉnh với tốc độ cao hơn các lần điều chỉnh trước.

Về mặt giáo dục- đào tạo, tính đến hết tháng 6/2012 đã có 59/63 địa phương đạt phổ cập giáo dục tiểu học đúng độ tuổi và 63/63 địa phương đạt chuẩn phổ cập trung học cơ sở. Hiện có 62/63 địa phương có trường đại học, cao đẳng, trong đó có 48 địa phương có trường đại học.

Cả nước có 419 trường đại học, cao đẳng, tăng 5 trường, trong đó có 82 trường ngoài công lập. Tổng số sinh viên đại học, cao đẳng lên đến 2,2 triệu người, tăng 2,1%; bình quân 1 vạn dân đạt 260 sinh viên; công lập đạt 1,9 triệu người. Cả nước có 294 trường trung cấp chuyên nghiệp, tăng 4 trường, trong đó có 197 trường công lập, 97 trường ngoài công lập; số học sinh đạt 618,9 nghìn; tuyển mới 282,9 nghìn; tốt nghiệp 216 nghìn. Công tác đào tạo nghề thường xuyên được quan tâm mở rộng. Hiện có 136 trường cao đẳng nghề, 307 trường trung cấp nghề, 850 trung tâm dạy nghề và hơn 600 cơ sở khác có dạy nghề. Số học sinh học nghề có 1887,6 nghìn, tăng 11,4% (cao đẳng và trung cấp nghề 258,6 nghìn, sơ cấp nghề 910,8 nghìn lượt người); số tốt nghiệp 1673 nghìn lượt người, tăng 14,8%.

Về y tế, việc đầu tư phát triển mạng lưới khám chữa bệnh, y tế dự phòng, bảo đảm vệ sinh an toàn thực phẩm được quan tâm hơn trước.

Tuổi thọ 2011 đạt 75,2, tăng 10 tuổi so với 1990, cao hơn mức 69,3 tuổi của nhóm nước có HDI trung bình, cao hơn cả mức 72,6 tuổi của nhóm có HDI cao. Ngoài các yếu tố có tính tự nhiên, đây chính là kết quả của việc cải thiện mức sống, chăm lo sức khoẻ của con người trên nhiều mặt.

Tỷ lệ nghèo giảm mỗi năm khoảng 2%, tính theo chuẩn mới năm 2010 còn 14,2%, năm 2011 còn 12,6%. Số cơ sở khám chữa bệnh công lập đến năm 2011 có 13.484, tăng 367 cơ sở so với năm 2000. Số giường bệnh năm 2011 đạt 248 nghìn, tăng 50 nghìn; bình quân 1 vạn dân đạt 21,8 giường; số bác sỹ đạt 62 nghìn, tăng 22,8 nghìn; bình quân 1 vạn dân đạt 7,1 bác sỹ, tăng 2,1 bác sỹ. Đó là chưa kể các cơ sở ngoài công lập đã phát triển với tốc độ nhanh trong những năm qua. Tỷ suất sinh thô đã giảm nhanh từ 18,6‰, năm 2005 xuống còn 16,6‰ năm 2011. Tổng tỷ suất sinh giảm từ 2,11 con/phụ nữ xuống còn 1,99- dưới mức sinh thay thế. Tỷ suất chết của trẻ em dưới 1 tuổi giảm từ 17,8‰ xuống còn 15,5‰; của trẻ em dưới 5 tuổi giảm từ 26,8‰ xuống còn 23,3‰. Tỷ suất chết của người mẹ trong thời gian thai sản, tỷ lệ trẻ sơ sinh có trọng lượng dưới 2.500 gram, tỷ lệ trẻ em dưới 5 tuổi bị suy dinh dưỡng, số ca mắc/số người chết do bệnh truyền nhiễm gây dịch,… đã giảm. Tỷ lệ trạm y tế xã/phường/thị trấn có bác sỹ, có nhân viên hộ sinh hoặc y sỹ sản nhi, đạt chuẩn quốc gia về y tế, tỷ lệ trẻ em dưới 1 tuổi được tiêm chủng đầy đủ các loại vaccine đã tăng lên. Có một nét đẹp đáng khích lệ là những người từ 80 tuổi trở lên từ nhiều năm nay đã được trợ cấp hàng tháng, tuy chưa nhiều, nhưng điều đó thể hiện sự quan tâm của Nhà nước, của cộng đồng đối với người cao tuổi.

Tuy nhiên, về mặt y tế, chăm sóc sức khoẻ cũng còn những hạn chế, bất cập, trong đó có các vấn đề về số bệnh nhân/giường bệnh, nhất là ở bệnh viện tuyến trên; về giá thuốc; về vệ sinh an toàn thực phẩm,…

Văn kiện Đại hội XI của Đảng đã đưa ra một số chỉ tiêu có liên quan đến y tế và chăm sóc sức khỏe như: giảm tốc độ tăng dân số thời kỳ 2011- 2015 xuống còn dưới 1%; bình quân 1 vạn dân đến 2020 có 9 bác sỹ; thực hiện bảo hiểm y tế toàn dân,…

Tai nạn giao thông giảm 20,5% số vụ, giảm 19,3% số người chết, 22,6% số bị thương. Tuy nhiên về quy mô tuyệt đối vẫn còn khá cao.

Theo CP