![]() Ảnh minh họa.
|
Ở Việt Nam tuy chưa có số liệu điều tra chính xác nhưng theo ước tính có từ 1,5-2% dân số mắc bệnh vảy nến. Thực tế là bệnh này khó kiểm soát, dễ bị tái phát nhiều lần nên người bệnh không kiên trì khi chữa bệnh. Vì bệnh liên quan đến vẻ bề ngoài, thẩm mỹ nên khi bị mắc bệnh vảy nến hay ngại ngùng, giấu bệnh và nhiều bệnh nhân thường nghe theo lời quảng cáo chữa khỏi hẳn bệnh vảy nến nên đã tự ý đi điều trị, gây hậu quả nặng nề.
Tại Bệnh viện Da liễu Trung ương hiện đang quản lý hơn 2000 hồ sơ bệnh nhân mắc bệnh vảy nến. Hầu hết các trường hợp vảy nến là thể nhẹ, một số trường hợp thể vừa và thể nặng cần được dùng các thuốc toàn thân trong điều trị.
Bệnh vảy nến thường xuất hiện ở tuổi ngoài 20, có thể gặp ở người lớn tuổi ngoài 50, đôi khi ở trẻ nhỏ dưới 10 tuổi và nếu ở tuổi này thì thường có yếu tố gia đình với biểu hiện bệnh nặng hơn, kéo dài hơn. Tỷ lệ bệnh ở nam và nữ như nhau.
Cơ chế sinh bệnh vảy nến bao gồm yếu tố gen di truyền, rối loạn yếu tố miễn dịch, và các yếu tố từ môi trường. Yếu tố di truyền, nếu bố hoặc mẹ bị bệnh thì có khoảng 8% con bị bệnh, nếu cả bố và mẹ bị bệnh thì tới 41% con mắc bệnh. Các yếu tố khác như nhiễm khuẩn, chấn thương, thuốc, thức ăn. Ngoài ra, các yếu tố có thể làm bệnh nặng hơn là các sang chấn như gãi, chà sát mạnh. Nhiễm trùng mà thường là nhiễm liên cầu. Các stress tâm lý , sử dụng thuốc corticosteroid, lithium, các thuốc chống sốt rét, interferon ... có thể làm nặng bệnh. Rượu cũng là tác nhân làm cho bệnh nặng lên.
Chính vì có các tổn thương ngoài da nên nhiều người nghĩ rằng vảy nến chỉ là bệnh ngoài da có thể sẽ lây lan sang người lành nhưng trên thực tế đây là căn bệnh mạn tính, không lây, hiện chưa có cách chữa khỏi. Tuy nhiên, có thể kiểm soát tốt các triệu chứng bệnh nếu người bệnh tuân thủ phác đồ điều trị của các bác sĩ.
Vảy nến là một bệnh mạn tính, diễn biến bệnh lâu dài, có thể khỏi một thời gian dài nhưng cũng có nhiều trường hợp tái phát liên tục. Việc điều trị cần phải có sự phối hợp rất chặt chẽ giữa thầy thuốc và người bệnh để có thể tìm ra phương pháp điều trị tối ưu nhất, hiệu quả, ít tác dụng phụ và phù hợp với hoàn cảnh người bệnh về kinh tế, công việc và gia đình, xã hội. Ngày nay, khoa học hiểu rõ bệnh vảy nên không đơn thuần là bệnh ngoài da mà là bệnh toàn thân, có liên quan với các bệnh lý về tim mạch, gan nhiễm mỡ không do rượu, béo phì và các bệnh lý chuyển hóa. Trên thực tế có khoảng 42% người mắc bệnh vảy nến cũng mắc bệnh viêm khớp vảy nến, gây đau đớn, xơ cứng, sưng tại các khớp và có thể dẫn đến biến dạng và mất chức năng vĩnh viễn. Nhiều người điều trị không đúng và thiếu chăm sóc.Vì vậy người bệnh tuyệt đối không tin lời đổn thổi, quảng cáo chữa dứt điểm bệnh vảy nến tránh tiền mất bệnh lại nặng thêm.
Hiện nay các phương pháp điều trị bệnh vảy nến ở Việt Nam cũng đã tiếp cận được với thế giới, chúng tôi cũng đã có những hướng dẫn điều trị cập nhật từ 2017 các phác đồ điều trị của thế giới. Các thuốc từ đơn giản nhất như là thuốc bôi cho đến thuốc toàn thân, các phương pháp điều trị ánh sáng đến các thuốc sinh học mới nhất thì tại Việt Nam cũng đã có. Chính vì vậy việc quản lý điều trị bệnh vảy nến ở Việt Nam đều đáp ứng được.
Một trong những phương pháp được ưu tiên trong điều trị bệnh vảy nến hiện nay hiện đang được sử dụng tại Bệnh viện Da liễu Trung ương đó là điều trị bằng UVB dải hẹp toàn thân. Đối với kiểm soát trường hợp bệnh nhân vảy nến mức độ vừa và nặng thì UVB dải hẹp đáp ứng tốt (khoảng 80% các trường hợp được nghiên cứu là đáp ứng tốt đến rất tốt; một số trường hợp khác cần chuyển phác đồ điều trị tùy đáp ứng của bệnh nhân). Đây là phương pháp mới, ổn định bệnh lâu dài (so với các phương pháp trước đây là điều trị ánh sáng UV, UVA dải rộng). Theo nhiều nghiên cứu trên thế giới và của bệnh viện Da liễu Trung ương chỉ ra rằng khoảng gần 50% bệnh nhân vẫn ổn định bệnh sau 6 tháng điều trị.
Ngoài ra, trị liệu sinh học ngày nay đã được sử dụng trong bệnh vảy nến. Thuốc sinh học là những protein dẫn xuất từ nguồn sống (con người, động vật, cây cỏ, vi sinh vật) hoặc tổng hợp thông qua kỹ thuật tái tổ hợp DNA. Tuy nhiên, điều trị bệnh cần phải cân nhắc về tuổi, thể bệnh, vị trí thương tổn, diện tích da bị bệnh, các phương pháp và các thuốc đã sử dụng. Do vậy, người bệnh cần đến bác sĩ chuyên khoa da liễu để chẩn đoán xác định bệnh, cho chỉ định điều trị ban đầu.
Để phòng bệnh vảy nến, người dân cần tránh căng thẳng thần kinh, sinh hoạt điều độ, hạn chế chất kích thích (rượu, cà phê...). Hàng ngày, mọi người cần vệ sinh thân thể, tắm sạch sẽ giúp loại bỏ các vảy và da viêm; không nên dùng nước nóng và xà phòng có chất tẩy mạnh vì có thể làm tăng các triệu chứng. Mọi người nên sử dụng nước ấm và xà phòng nhẹ hoặc có thể dùng dầu tắm riêng biệt; sau khi tắm, thấm khô da sau đó dùng kem dưỡng ẩm. Người bệnh vảy nến cần thận trọng với các món ăn lạ dễ gây dị ứng nhất là những đồ ăn chứa nhiều protein và tanh (như: tôm, cua, ghẹ, măng, cà, lạp sườn, xúc xích, thịt gà, đồ hộp, trứng...); đồ uống có chất kích thích (như: rượu, bia, cà phê, trà, thuốc lá, tiêu, ớt...); đồ ăn có chứa nhiều chất béo (như: đường, sữa, mỡ, bơ, đồ ngọt tổng hợp...). Ngoài ra, người bệnh vảy nến phải hạn chế tiếp xúc với hóa chất (như: xà phòng, dầu gội, sữa tắm...); thận trọng khi sử dụng nước hoa, son phấn, kem dưỡng da, thuốc nhuộm tóc... Người bệnh nên ăn nhiều thực phẩm chứa các loại axit béo có lợi như Omega - 3 và các loại rau quả giàu vitamin B12, chất khoáng như kẽm… để nâng cao sức đề kháng cho cơ thể. Người bệnh cũng có thể tham khảo các thầy thuốc chuyên khoa để bổ sung một số loại thảo dược giảm ngứa và tránh tổn thương lan rộng.
Đồng Nai