Chuyển sang mô hình tăng trưởng dựa vào con người

(CTG) Năng suất lao động, nông nghiệp là những chủ đề được các nhà đầu tư quan tâm phân tích nhiều tại diễn đàn kết nối cơ hội đầu tư (VietCapital Vietnam Access Day) diễn ra hôm qua 23.10 tại TP.HCM, do công ty Quỹ quản lý Bản Việt tổ chức.

Theo các nhà đầu tư, Việt Nam đang ở vào giai đoạn khó khăn với nhiều điểm tương tự Thái Lan khi gặp khủng hoảng năm 1997. Điều này sớm muộn sẽ được khắc phục, tuy nhiên khó khăn với Việt Nam là làm gì để hình thành được mô hình tăng trưởng mới dựa vào năng suất lao động.



Sau thời gian dài tăng trưởng dựa vào thâm dụng lao động, đã đến lúc Việt Nam cần có cuộc cách mạng về năng suất. Trong ảnh: công nhân sản xuất giày tại công ty sản xuất giày dép An Lạc. Ảnh: Lê Quang Nhật


Dựa vào năng suất

Ông Marco Breu, giám đốc điều hành McKinsey&Company Vietnam, cho rằng năng suất lao động giảm trong khi quá trình đô thị hoá quá nhanh là một thách thức lớn cho Việt Nam. Tăng trưởng của lực lượng lao động trước đây đạt 3%/năm đã mang lại lợi thế cho Việt Nam thì tốc độ này đã giảm lại, chỉ còn 0,5 – 1%. Nếu duy trì mức tăng trưởng 6 – 7% GDP thì vấn đề mấu chốt phải giải quyết là yếu tố lao động, đòi hỏi mức tăng trưởng liên tục từ 5% đến hết năm 2020. “Có thể tham khảo mô hình Hàn Quốc năm 1980, quốc gia này đã tạo ra cuộc cách mạng chuyển đổi năng suất lao động làm động lực phát triển kinh tế. Việt Nam cần đạt chiến lược ở tầm quốc gia để chuyển qua giai đoạn phát triển mới”, ông Marco khuyến cáo.

Năng suất lao động thấp là yếu tố khiến các doanh nghiệp, đặc biệt là doanh nghiệp nhà nước không thể ứng phó kịp thời với các biến động kinh tế. Theo ông Marco, Việt Nam vừa đi qua giai đoạn tăng trưởng kinh tế dựa vào vốn tích luỹ, nguồn tài nguyên, và chính sách cải cách kinh tế thu hút đầu tư. “Không cứ thu nhập đầu người tốt thì chất lượng lao động cao bởi mức tăng trưởng này chưa phải đến từ năng suất lao động. Muốn đạt được mức tăng trưởng mới thì phải dựa vào kỹ năng, kiến thức và giáo dục để chuyển sang những lĩnh vực sản xuất có giá trị cao hơn, có tốc độ phát triển tốt hơn và giúp toàn nền kinh tế chuyển hướng”, ông Marco nói.

Theo ông Sanjay Kalra, đại diện quỹ IMF tại Việt Nam, chất lượng của tăng trưởng trong giai đoạn dài mới là quan trọng, chỉ số ổn định và bền vững quan trọng hơn phần trăm tăng trưởng. Việc tăng trưởng phải được phân bổ công bằng giữa các thành phần kinh tế và các khu vực xã hội, trong quá trình tăng trưởng đó phải lấy giáo dục làm trung tâm, và cần sự hợp tác chặt chẽ giữa các thành tố trong nền giáo dục.

Các nhà đầu tư tại diễn đàn cho rằng khó khăn của nền kinh tế đã làm thay đổi thái độ ứng xử của người tiêu dùng trong suốt năm năm qua. Lạm phát làm thị trường bấp bênh, ảnh hưởng mạnh đến tầng lớp trung lưu và thu nhập thấp khiến thị trường mất tính bền bỉ. Theo khảo sát của TNS, chỉ số niềm tin tiêu dùng của người Việt Nam giảm mạnh, đặc biệt năm 2009 – 2010 một nỗi lo sợ bao trùm thị trường, thì hiện nay tình trạng này đang có dấu hiệu quay lại. Năm 2011 chỉ số niềm tin ở mức 79 điểm thì năm 2012 đã xuống 68, bởi người dân lo lắng về công việc. Năm 2011, 50% dân số cho biết tiết kiệm 5% thu nhập, nhưng hiện nay hơn 50% cho rằng phải tiết kiệm 5 – 20%. “Điều này phản ánh niềm tin vào nền kinh tế kém”, theo ông Ralf Matthaes, giám đốc điều hành TNS Vietnam.

Theo ông, yếu tố năng suất lao động đang khiến nhiều ngành tụt lại đằng sau như tài chính hay khối doanh nghiệp nhà nước. Việt Nam hiện là một phần của chuỗi cung ứng toàn cầu, nếu không tăng được năng suất lao động thì khó đi lên mức thang cao hơn, và tiếp tục đối mặt với sự cạnh tranh của các quốc gia trong khu vực.

Thay đổi tư duy nông nghiệp

Trong khi yếu tố năng suất lao động đang thách thức từng doanh nghiệp thì các nhà đầu tư cũng lo ngại tham gia vào các ngành nghề dù đánh giá tiềm năng. Các nhà đầu tư đặt vấn đề vì sao nông nghiệp là ngành có tiềm năng lớn nhưng đến nay Việt Nam có rất ít công ty chế biến có tên tuổi hay nhà sản xuất lương thực có thể đáp ứng được cả thị trường trong nước lẫn xuất khẩu.

Theo ông Marc Djandji, phó chủ tịch Indochina Capital, Việt Nam vẫn chưa có doanh nghiệp nông nghiệp đạt tầm lớn để cạnh tranh về lợi thế quy mô. Trong khi một nền kinh tế luôn cần những doanh nghiệp đủ quy mô vượt ra khỏi phạm vi địa phương, chưa kể họ cần nâng cao năng lực quản trị doanh nghiệp và tài chính trước khi nghĩ đến mở rộng sản xuất và xuất khẩu.

Ông Nguyễn Bá Chủ, tổng giám đốc Bourbon Tây Ninh, cho rằng sản xuất nông nghiệp tại Việt Nam khó tận dụng được lợi thế quy mô vì chính sách hạn điền trong dân, nhà sản xuất không có được diện tích đủ tạo vùng nguyên liệu tập trung, cơ giới hoá sản xuất để giảm chi phí. Thị trường hàng hoá nông sản còn đòi hỏi sự khác biệt so với hàng tiêu dùng thông thường. “Chỉ có thay đổi tư duy hướng đến nông nghiệp quy mô lớn thì mới có thể giảm chi phí và tăng lợi nhuận đồng thời với mở rộng và phát triển chuỗi cung ứng”, theo ông Chủ.

Marc Djandji phân tích thêm, Việt Nam cần chuỗi cung ứng nhiều bên giúp cho nông nghiệp, nên cân nhắc chuỗi đầu vào – đầu ra – chuỗi chế biến xuất khẩu. Nếu tận dụng được năng suất và quy mô đạt đến mức tương đối thì mới có thể áp dụng biện pháp kiểm soát chất lượng tốt hơn. “Nông nghiệp Việt Nam là nơi có thể tạo chuỗi cung ứng cho triển vọng lợi nhuận tốt nhưng vấn đề là phân chia giá trị cho các thành phần tham gia khác nhau như thế nào là hợp lý”, ông Marc Djandji nói.

 
Theo SGTT