Theo dự báo của Tổ chức lao động quốc tế (ILO), khi tham gia AEC, số việc làm của Việt Nam sẽ tăng lên 14,5% vào năm 2025. Vì vậy, nếu không đổi mới công tác đào tạo nghề đáp ứng nhu cầu thị trường thì lao động Việt Nam sẽ khó cạnh tranh sòng phẳng với lao động nước ngoài khi hội nhập.
Sẽ có sự cạnh tranh việc làm khốc liệt khi hội nhập
Hiện nay, ASEAN đã có Hiệp định về di chuyển tự nhiên nhân lực và thỏa thuận công nhận lẫn nhau về chứng chỉ lành nghề của cơ quan chính thức đối với tám nghề được “tự do” chuyển dịch: Kiểm toán, kiến trúc, kĩ sư, nha sĩ, bác sĩ, y tá, điều tra viên và du lịch. Đồng thời, việc công nhận lẫn nhau về kĩ năng nghề sẽ là một trong những điều kiện rất quan trọng trong thực hiện dịch chuyển lao động giữa Việt Nam với các nước trong khu vực. Tham gia AEC, Việt Nam có những lợi thế về quy mô lao động, cơ cấu lao động “trẻ”.
![]() Thí sinh Việt Nam tại Kỳ thi tay nghề ASEAN lần thứ X.
|
Tuy nhiên, với xuất phát điểm thấp, với khoảng 45% lực lượng lao động vẫn làm việc trong lĩnh vực nông nghiệp, hầu hết chưa qua đào tạo, chỉ có khoảng 30% tỉ lệ lao động tham gia vào thị trường lao động chính thức. Vì thế nước ta cần nâng cao hơn nữa chất lượng nguồn nhân lực, có sự điều chỉnh phù hợp về cơ cấu lao động, tổ chức tốt thị trường lao động. Bên cạnh đó, người lao động cũng phải chủ động nâng cao tay nghề, các kĩ năng mềm khác và học ngoại ngữ để có cơ hội tham gia làm việc tại các nước của AEC. Lao động Việt Nam phải ý thức được điều này, chấp nhận áp lực cạnh tranh, để không bị thua ngay trên sân nhà.
Theo số liệu từ Viện Nghiên cứu Khoa học dạy nghề, lao động qua đào tạo nghề hiện nay tham gia vào hầu hết các lĩnh vực của nền kinh tế quốc dân và đã đảm nhận được các vị trí, công việc phức tạp mà trước đây phải do chuyên gia nước ngoài thực hiện; khoảng 70% học sinh tìm được việc làm hoặc tự tạo việc làm ngay sau khi tốt nghiệp, ở một số nghề và một số cơ sở dạy nghề tỉ lệ này đạt trên 90%.
Chúng ta vẫn nghe người ta đánh giá, chất lượng lao động Việt Nam thấp trong bảng xếp hạng của các nước trong khu vực. Ví dụ, năm 2014, tổ chức ILO đưa ra báo cáo về năng suất của lao động Việt Nam thuộc nhóm thấp ở Châu Á - Thái Bình Dương và ở ASEAN: Chỉ bằng 1/15 so với Singapore; bằng 1/5 Malaysia và 2/5 Thái Lan. Tuy nhiên, theo lãnh đạo Viện Nghiên cứu Khoa học dạy nghề, trong tổng số 54,59 triệu người (theo thống kê của Bản tin thị trường lao động Quý IV năm 2015), lực lượng lao động đã qua đào tạo có văn bằng, chứng chỉ chỉ chiếm 20,2%; qua đào tạo nghề năm 2015 cũng chỉ đạt 38,5%. Như vậy, phần đông lực lượng lao động Việt Nam không qua đào tạo, dẫn đến năng suất thấp, chất lượng thấp, chứ hoàn toàn không phải là đào tạo nghề có chất lượng thấp, trình độ thấp. Thêm một minh chứng nữa cho chất lượng đào tạo nghề của chúng ta: Việt Nam đã 8 lần tham dự kì thi tay nghề ASEAN thì có 3 lần đạt giải nhất toàn đoàn. Về kĩ năng nghề của học sinh học nghề, chúng ta đứng top 3 trong 10 nước trong khu vực, đây cũng là đánh giá của các nước trong khu vực.
Nâng cao chất lượng để hội nhập
Theo TS Vũ Xuân Hùng, Viện trưởng Viện Nghiên cứu khoa học dạy nghề, phần lớn sự yếu kém của nguồn nhân lực lao động Việt Nam hiện nay chủ yếu là do chưa qua đào tạo. Nghị quyết Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ 12 của Đảng đã đặt mục tiêu đến năm 2020, tỉ lệ lao động qua đào tạo đạt khoảng 65-70%. Chỉ có đào tạo mới khắc phục được những yếu kém về phẩm chất, năng lực của người lao động; chỉ đào tạo mới biết cách làm để năng suất, chất lượng được nâng lên.
Để thực hiện được mục tiêu này, theo TS Vũ Xuân Hùng cần phải có nhiều giải pháp từ vĩ mô đến vi mô, từ quản lí nhà nước, xây dựng cơ chế, chính sách đến tổ chức, quản lí đào tạo nghề.
Theo đó TS Vũ Xuân Hùng kiến nghị tập trung vào một số giải pháp chính để nâng cao chất lượng đào tạo nghề: “Thứ nhất, cần đổi mới quản lí Nhà nước về giáo dục nghề nghiệp: Xây dựng, ban hành hệ thống các văn bản quy phạm pháp luật hướng dẫn thi hành Luật GDNN và các luật có liên quan theo hướng đổi mới căn bản, toàn diện GDNN...; thứ hai, triển khai và quản lí khung trình độ quốc gia; thiết lập hệ thống đánh giá, cấp chứng chỉ nghề quốc gia; thứ ba, phát triển đội ngũ nhà giáo giáo dục nghề nghiệp; Tthứ tư, phát triển chương trình, giáo trình: Hướng dẫn các cơ sở giáo dục nghề nghiệp xây dựng chuẩn đầu ra cho các nghề theo Khung trình độ quốc gia, trên cơ sở đó xây dựng các chương trình đào tạo theo chuẩn đầu ra đáp ứng yêu cầu của doanh nghiệp; thứ năm, tăng cường cơ sở vật chất, thiết bị đào tạo nghề: Tăng cường bổ sung cơ sở vật chất, thiết bị đào tạo bằng đầu tư của nhà nước, của các chương trình, đề án, dự án. Mặt khác, tăng cường cơ sở vật chất, thiết bị theo hướng gắn kết với doanh nghiệp để khai thác cơ sở vật chất, thiết bị của doanh nghiệp...; thứ sáu, gắn kết với doanh nghiệp trong đào tạo nghề: Đây là giải pháp rất quan trọng trong việc hóa giải nhiều khó khăn bất cập hiện nay về chất lượng đào tạo. Muốn vậy cần cụ thể hóa các cơ chế, chính sách gắn kết giữa doanh nghiệp với cơ sở GDNN theo quy định của Luật GDNN và Nghị định số 48/2015/NĐ-CP ngày 15/5/2015 của Chính phủ quy định chi tiết một số điều của Luật GDNN; phối hợp với Bộ Tài chính triển khai áp dụng chính sách miễn thuế thu nhập cho doanh nghiệp khi tham gia hoạt động GDNN...”
Bản chất của dạy nghề là đáp ứng nhu cầu xã hội, mục tiêu của dạy nghề là cung cấp nhân lực trực tiếp trong sản xuất, kinh doanh và dịch vụ; đáp ứng nhu cầu thị trường lao động. Để đảm bảo đáp ứng nhu cầu xã hội hiệu quả và bền vững thì nhân tố con người là yếu tố cơ bản quyết định đến sự thành công thông qua việc xây dựng hệ thống pháp luật, cơ chế, chính sách và tổ chức quá trình đào tạo. Vì vậy điều quan trọng nhất là: Xây dựng cơ chế, chính sách quy định trách nhiệm, quyền lợi và tạo điều kiện thuận lợi cho các lực lượng xã hội tham gia với tư cách là chủ thể trong hoạt động đào tạo nghề.
Ông Khuất Văn Thành, Giám đốc Sở Lao động Thương binh và Xã hội TP Hà Nội cho biết, nhìn chung, chất lượng đào tạo nghề qua các năm đã dần được nâng cao. Sau học nghề, học sinh, sinh viên, người lao động đã có kỹ năng nghề để tham gia lao động tại các doanh nghiệp, tự tạo việc làm hoặc thành lập tổ hợp tác, doanh nghiệp.
Thời gian tới, để nâng cao chất lượng đào tạo nguồn nhân lực, đặc biệt là nguồn nhân lực cao, ông Khuất Văn Thành cho rằng, cần tiếp tục đẩy mạnh tuyên truyền các chủ trương của Đảng và chính sách pháp luật của Nhà nước đối với công tác dạy nghề và học nghề bằng nhiều hình thức, đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo; đẩy mạnh công tác xã hội hóa, huy động và đa dạng hóa các nguồn lực đầu tư cho đào tạo nghề; mở rộng và đầu tư phát triển các cơ sở dạy nghề với mô hình liên kết giữa doanh nghiệp và các cơ sở dạy nghề; liên kết đào tạo với các cơ sở đào tạo nước ngoài có uy tín; gắn đào tạo nghề với sử dụng lao động theo yêu cầu thực tiễn sản xuất - kinh doanh, đẩy mạnh việc đào tạo theo địa chỉ, theo đơn đặt hàng, gắn đào tạo nghề với giải quyết việc làm, với thị trường lao động.
|
Theo TTTĐ