FDA phê chuẩn phương pháp điều trị mới làm lành vết loét chân do tiểu đường

(CTG) Loét bàn chân là một biến chứng nghiêm trọng của bệnh tiểu đường, và là thành phần chính bàn chân tiểu đường. Tình trạng bệnh lý này ảnh hưởng đến 15% số bệnh nhân bị bệnh tiểu đường.


Loét chân đái tháo đường là một biến chứng nghiêm trọng của bệnh tiểu đường. Nó xảy ra ở khoảng 15% của tất cả các bệnh nhân đái tháo đường. Cho đến nay, một số tổng kết cho thấy bệnh lý loét bàn chân đái tháo đường xảy ra ở người nghèo và người có thu nhập thấp.

Một số phương pháp điều trị mới đã được đề xuất để chăm sóc và điều trị bệnh này. Trong hầu hết các liệu pháp, việc chăm sóc loét bàn chân đái tháo đường liên quan đến vết thương hở, tái lưu thông mạch máu, loại bỏ các ổ loét, sử dụng kháng sinh, kích thích mô, tái tạo da và hình thành mạch.




Loét bàn chân là một biến chứng nghiêm trọng của bệnh tiểu đường, và là thành phần chính bàn chân tiểu đường. Tình trạng bệnh lý này ảnh hưởng đến 15% số bệnh nhân bị bệnh tiểu đường. Nghiên cứu gần đây cho thấy rằng có đến 88% các ca phẫu thuật cắt bỏ chân liên quan đến tình trạng loét bàn chân do đái tháo đường (Alvarsson et al., 2012). Quan trọng hơn là số ca bệnh nhân mắc đái tháo đường sẽ nhanh chóng tăng lên 439 triệu vào năm 2030.

Loét do tổn thương thần kinh và thiếu máu cục bộ là 2 yếu tố chính gây ra loét chân do đái tháo đường (DFUs) (Wu et al. , 2007). Khó khăn lớn nhất của DFUs là không kiểm soát đường huyết tốt trong một thời gian dài. Lý do chính có liên quan đến mất cân bằng giữa metalloproteinase (MMPs) và chất ức chế MMP (Muller và cộng sự . , 2008). Tình trạng này sẽ càng nghiêm trọng hơn khi có đồng thời có sự hiện diện của bệnh thiếu máu cục bộ và bệnh về mạch máu. Chấn thương mạch máu và thiếu máu cục bộ làm giảm oxy và chất dinh dưỡng đến vết thương. Vì vậy, cơ chế làm lành vết thương không thể thực hiện ở những bệnh nhân đái tháo đường. Thiếu oxy và dinh dưỡng, các tế bào biểu mô ở vết thương không thể tạo ra các yếu tố tăng trưởng (Growth factors) cần thiết như VEGF và PDGF để chữa bệnh; hầu hết các tế bào ở vết thương thay đổi sự trao đổi chất và sự hoạt động (Lobo et al. , 2013) .

Dịch bệnh tiểu đường trên toàn thế giới không có dấu hiệu chậm lại. Điều trị bệnh loét chân ở người bị tiểu đường (DFUs), một vấn đề y tế liên quan đến khoảng 6% người cao tuổi mắc bệnh tiểu đường, tốn hàng tỷ đô la mỗi năm.

Cơ quan Quản lý Thuốc và Thực phẩm Mỹ FDA gần đây đã chấp thuận đưa ra thị trường phương pháp điều trị DermaPace của SanuWave dựa trên kết quả của thử nghiệm. Theo FDA, cơ quan này gần đây xem xét các báo cáo và dữ liệu từ hai nghiên cứu mù kép bao gồm 336 bệnh nhân tiểu đường. Trong cả hai nghiên cứu, các nhóm thử nghiệm và nhóm chứng đã được điều trị bằng phương pháp sốc DermaPace hoặc điều trị bằng sóng sốc giả không kích hoạt bên cạnh các phương pháp điều trị DFU thông thường, trong đó bao gồm băng khô và khử mùi. Nhóm được điều trị giả cho thấy tỷ lệ đóng vết thương 30% ở 24 tuần. Tỷ lệ đóng vết thương của nhóm thử nghiệm Dermapace tại cùng thời điểm 24 tuần là 44%.

Để xem xét các tác dụng phụ phổ biến của các phương pháp điều trị DermaPace cũng như việc cải thiện chữa bệnh, FDA đã cho phép Sanuwave đưa ra thị trường DermaPace. FDA đã sử dụng một quy trình xem xét trước khi đưa ra thị trường "de novo” theo dõi nhanh với DermaPace, đây là quy trình xem xét các sản phẩm mới không có thiết bị định vị được đưa ra thị trường hợp pháp.



Thu Vân