Tỷ lệ sinh con ở tuổi thanh niên và vị thành niên (TN và VTN) ở nước ta là 46 trong tổng số 1.000 ca sinh, tỷ lệ này thường cao hơn ở nhóm dân số có trình độ văn hóa thấp, ở khu vực nông thôn, nhất là đối với nhóm dân tộc thiểu số sống ở vùng sâu, vùng xa... Hậu quả của việc sinh con ở độ tuổi vị thành niên thường dẫn đến nguy cơ sinh non, sinh nhẹ cân, thai lưu và chết sơ sinh. Các nghiên cứu cho thấy, phụ nữ kết hôn trước 18 tuổi có xác suất sinh nhiều con hơn so với các bà mẹ sinh con khi ngoài 20 tuổi. Nguy cơ tử vong do thai sản đối với các bà mẹ trong nhóm tuổi từ 15 đến 19 tuổi cao gấp hai lần so với nhóm bà mẹ lớn tuổi hơn, nhất là các em gái trong độ tuổi 15 cao gấp bốn lần, bởi do các em phải chịu nhiều áp lực trong sinh nở, chăm sóc con cái và gia đình khi các em chưa đủ trưởng thành...
|
Kết quả của cuộc Tổng điều tra dân số và nhà ở năm 2009 cho thấy, có khoảng 2% số nam thanh niên và 8,5% số nữ thanh niên trong độ tuổi từ 15 đến 19 tuổi đã từng kết hôn. Tỷ lệ tảo hôn khu vực nông thôn cao gấp 2,5 lần so với khu vực thành thị và tỷ lệ này còn cao hơn nhiều tại các tỉnh thuộc khu vực trung du, miền núi phía bắc. Ðiển hình như ở tỉnh Lai Châu, một tỉnh miền núi có khoảng một phần ba số phụ nữ kết hôn trong độ tuổi từ 15 đến 19 tuổi; có 21% số phụ nữ trong độ tuổi từ 15 đến 17 tuổi đã từng kết hôn, trong đó có khoảng 7,5% số phụ nữ bắt đầu mang thai trong độ tuổi này. Tình trạng quan hệ tình dục trước hôn nhân là tương đối cao, có đến 44% số TN và VTN trong độ tuổi từ 14 đến 25 tuổi quan hệ tình dục trước hôn nhân, nên tỷ lệ phá thai trong nhóm này chiếm khoảng 20% tổng số ca phá thai ở Việt Nam.
Nguyên nhân, là do các dịch vụ chăm sóc sức khỏe sinh sản, tình dục bao gồm như tư vấn cho VTN còn chưa được phổ biến, nhu cầu tránh thai chưa được đáp ứng cao, nên vẫn có 50,4% số phụ nữ chưa lập gia đình nhưng đã có quan hệ tình dục mà không sử dụng bất cứ một biện pháp tránh thai nào. Có một phần ba số TN và VTN được phỏng vấn cho rằng, việc tiếp cận với các dịch vụ chăm sóc sức khỏe sinh sản, tình dục thường không dễ dàng, đặc biệt đối với khu vực nông thôn, khu vực miền núi có người dân tộc thiểu số sinh sống. Bên cạnh đó, việc cung cấp các dịch vụ chăm sóc sức khỏe sinh sản tại nhiều địa phương chưa phát huy hết hiệu quả, hay chưa cung cấp được các dịch vụ hữu ích và thân thiện với TN và VTN, cũng như vẫn còn một bộ phận không nhỏ cán bộ y tế tại các cơ sở cung cấp dịch vụ có thái độ thành kiến, năng lực chuyên môn còn hạn chế..., được cho là những rào cản đối với TN và VTN tiếp cận và sử dụng các dịch vụ sẵn có tại địa phương mình.
Ðể từng bước khắc phục khó khăn, hạn chế, đồng thời nâng cao nhận thức của cộng đồng nhằm giải quyết các vấn đề về tỷ lệ sinh con trong độ tuổi TN và VTN ở Việt Nam, Bộ Y tế cần tăng cường sự phối hợp với các bộ như: Bộ Giáo dục và Ðào tạo; Lao động - Thương bình và Xã hội; Nội vụ..., đối với việc cung cấp thông tin, điều tra, đánh giá về tử vong mẹ trong nhóm TN và VTN. Trên cơ sở đó giúp cho việc xây dựng các cơ chế, chính sách và triển khai các biện pháp can thiệp trong lĩnh vực chăm sóc sức khỏe sinh sản, tình dục cho TN và VTN. Tiếp tục đánh giá hiệu quả các mô hình chăm sóc sức khỏe sinh sản, tình dục cho TN và VTN, qua đó nhằm rút ra những bài học kinh nghiệm, các mô hình đạt hiệu quả để nhân rộng trong toàn quốc, nhưng cần chú ý đến các yếu tố về văn hóa - xã hội của các vùng, miền khi triển khai mô hình...
Bảo đảm cho TN và VTN được tiếp cận với các chương trình giáo dục toàn diện về sức khỏe sinh sản và tình dục trong các giáo trình dạy trong nhà trường, qua các buổi sinh hoạt ngoại khóa phù hợp từng lứa tuổi cụ thể... Chú trọng và nâng cao hiệu quả công tác truyền thông giáo dục sức khỏe sinh sản và tình dục, bằng việc sử dụng các phương pháp tiếp cận truyền thông hai chiều và tương tác, góp phần nâng cao nhận thức của TN và VTN, của gia đình, xã hội về những hậu quả tiêu cực của việc mang thai trong độ tuổi VTN có thể sẽ ảnh hưởng rất lớn đến sức khỏe, tính mạng và nòi giống. Ngành y tế cần chủ động hơn trong việc bảo đảm sự sẵn có, việc tiếp cận dễ dàng với các dịch vụ chăm sóc sức khỏe sinh sản, tình dục thân thiện với TN và VTN, cũng như các dịch vụ tư vấn tại trạm y tế xã, các cơ sở y tế khác cho TN và VTN đã kết hôn hoặc chưa kết hôn. Ðồng thời, khuyến khích TN và VTN tham gia đối thoại về mặt chính sách, thông qua đó tạo ra một môi trường thuận lợi cho TN và VTN chủ động và tham gia tích cực vào việc xây dựng, thực thi và giám sát các chương trình sức khỏe sinh sản, tình dục cho nhóm tuổi của họ...
Theo Nhân Dân