Theo ý kiến các chuyên gia, động lực chính cho tăng trưởng sẽ đến từ cải thiện môi trường kinh doanh, nâng cao năng lực cạnh tranh, chủ động nắm bắt cơ hội của cuộc cách mạng công nghiệp 4.0...
Động lực nền tảng từ cải thiện môi trường kinh doanh
Tốc độ tăng trưởng kinh tế của nước ta trong những năm gần đây không ngừng được cải thiện, song hành là kinh tế vĩ mô tiếp tục giữ ổn định. GS, TS Nguyễn Quang Thuấn, Chủ tịch Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam đánh giá: Trong số 13 chỉ tiêu kinh tế-xã hội đạt và vượt mức kế hoạch Quốc hội đề ra của năm 2017, hai chỉ tiêu kinh tế quan trọng nhất, được quan tâm nhiều nhất là tăng trưởng kinh tế và tỷ lệ lạm phát đều đạt kết quả ấn tượng. Tỷ lệ lạm phát thấp cũng góp phần quan trọng vào tăng cường ổn định kinh tế vĩ mô của nước ta. Ngoài ổn định kinh tế vĩ mô, có rất nhiều nguyên nhân góp phần tạo nên kết quả ấn tượng của nền kinh tế đất nước trong năm 2017, như thương mại quốc tế mở rộng, tăng trưởng sản lượng trong khu vực nông nghiệp và dịch vụ ở mức cao… "Nguyên nhân, động lực mang tính nền tảng hơn là sự cải thiện mạnh mẽ môi trường kinh doanh làm giảm chi phí giao dịch, giúp nâng cao năng lực cạnh tranh và thúc đẩy tăng trưởng kinh tế trong trung và dài hạn", GS, TS Nguyễn Quang Thuấn chia sẻ.
Động lực nền tảng từ cải thiện môi trường kinh doanh
Tốc độ tăng trưởng kinh tế của nước ta trong những năm gần đây không ngừng được cải thiện, song hành là kinh tế vĩ mô tiếp tục giữ ổn định. GS, TS Nguyễn Quang Thuấn, Chủ tịch Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam đánh giá: Trong số 13 chỉ tiêu kinh tế-xã hội đạt và vượt mức kế hoạch Quốc hội đề ra của năm 2017, hai chỉ tiêu kinh tế quan trọng nhất, được quan tâm nhiều nhất là tăng trưởng kinh tế và tỷ lệ lạm phát đều đạt kết quả ấn tượng. Tỷ lệ lạm phát thấp cũng góp phần quan trọng vào tăng cường ổn định kinh tế vĩ mô của nước ta. Ngoài ổn định kinh tế vĩ mô, có rất nhiều nguyên nhân góp phần tạo nên kết quả ấn tượng của nền kinh tế đất nước trong năm 2017, như thương mại quốc tế mở rộng, tăng trưởng sản lượng trong khu vực nông nghiệp và dịch vụ ở mức cao… "Nguyên nhân, động lực mang tính nền tảng hơn là sự cải thiện mạnh mẽ môi trường kinh doanh làm giảm chi phí giao dịch, giúp nâng cao năng lực cạnh tranh và thúc đẩy tăng trưởng kinh tế trong trung và dài hạn", GS, TS Nguyễn Quang Thuấn chia sẻ.
![]() Đóng gói sản phẩm tại Công ty CP Giầy Đông Anh (Hà Nội). Ảnh: Trần Minh
|
Môi trường đầu tư, kinh doanh của Việt Nam cũng được đánh giá tích cực trong nhiều báo cáo của các tổ chức quốc tế. Việt Nam được đánh giá cao không chỉ về sự thăng hạng vượt bậc so với chính mình mà còn thu hẹp đáng kể khoảng cách so với nhóm ASEAN-4 (bao gồm: Singapore, Malaysia, Thái Lan và Philippines). Theo Báo cáo Môi trường kinh doanh năm 2018 của Ngân hàng Thế giới (WB), môi trường kinh doanh của Việt Nam đã vươn lên vị trí 68/190 nước năm 2017, tăng 14 bậc so với năm 2016 (đạt vị trí 82/190) và tăng 23 bậc so với năm 2015 (đạt vị trí 91/189). Mức tăng bậc và điểm xếp hạng về cải thiện môi trường kinh doanh của Việt Nam năm 2017 là kết quả cao nhất nước ta đạt được từ năm 2010 đến nay.
Nhiều nhà nghiên cứu kinh tế cho rằng, cải thiện môi trường kinh doanh đã góp phần nâng cao năng lực cạnh tranh của nền kinh tế. Theo Báo cáo đánh giá năng lực cạnh tranh toàn cầu của Diễn đàn kinh tế Thế giới (WEF) công bố vào tháng 9-2017, chỉ số năng lực cạnh tranh của Việt Nam đã tăng từ 4,31 năm 2016 lên 4,4 năm 2017, tăng 5 bậc trên bảng xếp hạng so với năm 2016, tăng 20 bậc so với 5 năm trước đây. Hiệu quả đầu tư của nền kinh tế được cải thiện rõ rệt. Hệ số ICOR (hệ số sử dụng vốn) năm 2017 là 4,93, thấp hơn con số 5,15 của năm 2016. Hệ số này càng thấp phản ánh hiệu quả đầu tư của nền kinh tế càng cao hơn.
Sự vào cuộc của cả hệ thống chính trị cũng như những chính sách hợp lý và hành động quyết liệt của Chính phủ đã giúp nước ta đạt được thành quả bước đầu tích cực trong năm 2017. Đánh giá của các chuyên gia kinh tế cũng nhận định, với nền tảng kinh tế vĩ mô vững chắc hơn, môi trường kinh doanh được cải thiện sẽ tạo thêm động lực để thúc đẩy tăng trưởng kinh tế bền vững trong thời gian tới.
Tiếp tục khắc phục những tồn tại
Từ tiền đề của năm 2017, bước sang năm 2018, nền kinh tế nước ta đón nhận nhiều dự báo tích cực từ các tổ chức quốc tế. Ngân hàng ANZ dự báo, tăng trưởng kinh tế của Việt Nam năm 2018 sẽ đạt 6,8% và tỷ lệ lạm phát ở mức 3,5%. Ngoài ra, tỷ giá hối đoái của đồng VND so với USD ổn định, dự trữ ngoại hối tăng, dòng vốn FDI (vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài) sẽ tăng trưởng cao. Dự báo của Ngân hàng HSBC cho rằng, kinh tế nước ta sẽ đạt tăng trưởng ổn định, lạm phát năm 2018 ở mức 3,7%, thấp hơn so với mục tiêu 4%. Trong báo cáo mới nhất vào tháng 12-2017, Ngân hàng Phát triển châu Á (ADB) đã nâng mức dự báo tăng trưởng kinh tế của Việt Nam từ mức 6,3-6,5% lên 6,7%.
Triển vọng tươi sáng của kinh tế đất nước chỉ có thể trở thành hiện thực khi những khó khăn, thách thức được vượt qua. Các tổ chức quốc tế cũng như nhiều ý kiến chuyên gia đã cảnh báo nước ta về "bẫy thu nhập trung bình" khi một nền kinh tế bị mắc kẹt ở mức thu nhập trung bình không thể vươn lên trở thành nước phát triển. Nguy cơ này đối với nước ta vẫn luôn hiện hữu khi những tồn tại của nền kinh tế trong nhiều năm qua chưa được khắc phục triệt để. Nhìn nhận thẳng thắn, dù tăng trưởng kinh tế cao nhưng năng suất lao động của Việt Nam còn thấp so với các nước trong khu vực. Tiến trình cổ phần hóa tuy được đẩy mạnh nhưng tỷ lệ thoái vốn chưa cao dẫn đến sự tham gia của khu vực tư nhân vào quản trị, sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp Nhà nước đã cổ phần hóa còn hạn chế. Bên cạnh đó, sự kết nối giữa doanh nghiệp FDI và doanh nghiệp trong nước thiếu chặt chẽ, chưa tạo được hiệu ứng lan tỏa tích cực về công nghệ, tạo ra năng lực sản xuất cho nền kinh tế trong tương lai.
Nhiều nhà nghiên cứu kinh tế cho rằng, cải thiện môi trường kinh doanh đã góp phần nâng cao năng lực cạnh tranh của nền kinh tế. Theo Báo cáo đánh giá năng lực cạnh tranh toàn cầu của Diễn đàn kinh tế Thế giới (WEF) công bố vào tháng 9-2017, chỉ số năng lực cạnh tranh của Việt Nam đã tăng từ 4,31 năm 2016 lên 4,4 năm 2017, tăng 5 bậc trên bảng xếp hạng so với năm 2016, tăng 20 bậc so với 5 năm trước đây. Hiệu quả đầu tư của nền kinh tế được cải thiện rõ rệt. Hệ số ICOR (hệ số sử dụng vốn) năm 2017 là 4,93, thấp hơn con số 5,15 của năm 2016. Hệ số này càng thấp phản ánh hiệu quả đầu tư của nền kinh tế càng cao hơn.
Sự vào cuộc của cả hệ thống chính trị cũng như những chính sách hợp lý và hành động quyết liệt của Chính phủ đã giúp nước ta đạt được thành quả bước đầu tích cực trong năm 2017. Đánh giá của các chuyên gia kinh tế cũng nhận định, với nền tảng kinh tế vĩ mô vững chắc hơn, môi trường kinh doanh được cải thiện sẽ tạo thêm động lực để thúc đẩy tăng trưởng kinh tế bền vững trong thời gian tới.
Tiếp tục khắc phục những tồn tại
Từ tiền đề của năm 2017, bước sang năm 2018, nền kinh tế nước ta đón nhận nhiều dự báo tích cực từ các tổ chức quốc tế. Ngân hàng ANZ dự báo, tăng trưởng kinh tế của Việt Nam năm 2018 sẽ đạt 6,8% và tỷ lệ lạm phát ở mức 3,5%. Ngoài ra, tỷ giá hối đoái của đồng VND so với USD ổn định, dự trữ ngoại hối tăng, dòng vốn FDI (vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài) sẽ tăng trưởng cao. Dự báo của Ngân hàng HSBC cho rằng, kinh tế nước ta sẽ đạt tăng trưởng ổn định, lạm phát năm 2018 ở mức 3,7%, thấp hơn so với mục tiêu 4%. Trong báo cáo mới nhất vào tháng 12-2017, Ngân hàng Phát triển châu Á (ADB) đã nâng mức dự báo tăng trưởng kinh tế của Việt Nam từ mức 6,3-6,5% lên 6,7%.
Triển vọng tươi sáng của kinh tế đất nước chỉ có thể trở thành hiện thực khi những khó khăn, thách thức được vượt qua. Các tổ chức quốc tế cũng như nhiều ý kiến chuyên gia đã cảnh báo nước ta về "bẫy thu nhập trung bình" khi một nền kinh tế bị mắc kẹt ở mức thu nhập trung bình không thể vươn lên trở thành nước phát triển. Nguy cơ này đối với nước ta vẫn luôn hiện hữu khi những tồn tại của nền kinh tế trong nhiều năm qua chưa được khắc phục triệt để. Nhìn nhận thẳng thắn, dù tăng trưởng kinh tế cao nhưng năng suất lao động của Việt Nam còn thấp so với các nước trong khu vực. Tiến trình cổ phần hóa tuy được đẩy mạnh nhưng tỷ lệ thoái vốn chưa cao dẫn đến sự tham gia của khu vực tư nhân vào quản trị, sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp Nhà nước đã cổ phần hóa còn hạn chế. Bên cạnh đó, sự kết nối giữa doanh nghiệp FDI và doanh nghiệp trong nước thiếu chặt chẽ, chưa tạo được hiệu ứng lan tỏa tích cực về công nghệ, tạo ra năng lực sản xuất cho nền kinh tế trong tương lai.
Từ kinh nghiệm của nhiều nước trên thế giới, GS Trần Văn Thọ, Đại học Waseda (Nhật Bản) cho rằng, giải pháp Việt Nam có thể lựa chọn để tập trung trong thời gian tới là tích cực đổi mới, cách tân công nghệ, qua đó tăng năng suất lao động. "Đối với nước thu nhập trung bình thấp, khoảng cách công nghệ với nước phát triển còn lớn, chỉ cần tích cực chọn lựa, du nhập công nghệ là rút ngắn khoảng cách phát triển. Công nghệ du nhập cộng với hoạt động đầu tư, thay đổi thiết bị sẽ tăng năng suất nhanh", GS Trần Văn Thọ chia sẻ. Trong thời gian qua, cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 đã được nói đến nhiều tại Việt Nam. Ngày 4-5-2017, Thủ tướng Chính phủ đã có Chỉ thị số 16/CT-TTg “Về việc tăng cường năng lực tiếp cận cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ 4”. Để tận dụng cơ hội từ thành tựu khoa học công nghệ của thế giới, GS, TS Nguyễn Quang Thuấn cho rằng, trước hết cần xác định Việt Nam đang ở đâu trong cuộc cách mạng công nghiệp 4.0. Từ đó, đề xuất kế hoạch hành động phù hợp để giúp các cơ quan Chính phủ, doanh nghiệp và người dân phát huy tối đa tiềm năng của mình trong kỷ nguyên số, đưa Việt Nam thu hẹp khoảng cách phát triển với các nước tiên tiến. Ứng dụng công nghệ thông tin cũng là giải pháp để nâng cao năng lực quản trị của cả khu vực dịch vụ công cũng như các doanh nghiệp, góp phần hiện thực hóa mục tiêu tiếp tục cải thiện môi trường kinh doanh, nâng cao năng lực cạnh tranh của nền kinh tế.
Theo QĐND