Năm 1991, khi cùng gia đình vào lập nghiệp tại ấp 61, xã Thuận Bình (nay thuộc xã Bình Thành, tỉnh Tây Ninh), cô Vui mang theo giấc mơ giản dị là trở thành người giáo viên. Sau khi tốt nghiệp Trường Cao đẳng Sư phạm Long An, cô được phân công về giảng dạy tại điểm trường Đoàn 5, nơi giáp ranh biên giới Campuchia. Khi ấy, vùng đất này còn hoang sơ, dân cư thưa thớt, cuộc sống người dân vô cùng khó khăn. Học trò phần lớn là con em những hộ đi kinh tế mới, đường đến trường xa xôi, nhiều em phải bơi xuồng đến lớp. Lớp học chỉ hơn chục học sinh, đủ mọi lứa tuổi, có khi phải ghép hai trình độ trong cùng một phòng học nhỏ.
Cô Phạm Thị Tố Vui với lớp học ghép 4 và 5 |
Nhớ lại những ngày đầu ấy, cô kể: “Có hôm mưa lớn, nước ngập hết đường, học trò nghỉ học gần hết. Lúc ấy, tôi chỉ mong sao các em vẫn còn giữ được tinh thần ham học, dù có phải lội bùn hay chờ đò mỗi ngày.” Ở nơi cách trở, điện nước thiếu thốn, phương tiện di chuyển khó khăn, cô và các đồng nghiệp vẫn kiên trì bám trường, bám lớp. Mười năm trước, muốn về điểm chính của trường họp, cô phải thức dậy từ 5 giờ sáng, đợi đò duy nhất trong ngày, nếu lỡ chuyến là phải xin đi nhờ ghe của người dân. Gian khổ là thế, nhưng niềm vui của người giáo viên lại đơn giản – chỉ cần thấy nụ cười trong veo, lời chào lễ phép của học trò, là bao mệt nhọc dường như tan biến.
Nhờ sự tận tâm, tận lực ấy, cô Phạm Thị Tố Vui đã dìu dắt nhiều thế hệ học sinh trưởng thành. Không ít em đã trở thành bác sĩ, kỹ sư, sĩ quan, cán bộ xã…; có những người tiếp bước cô, trở thành giáo viên ở chính quê hương như cô Nguyễn Thị Toan – Phó Hiệu trưởng Trường Mẫu giáo Thuận Bình, hay cô Nguyễn Thị Mai – giáo viên Trường Tiểu học Tân Hiệp. Với cô, “thành công lớn nhất của người thầy chính là nhìn thấy học trò của mình nên người”.
Trên hành trình ấy, cô Vui không ngừng học hỏi, đổi mới và sáng tạo trong giảng dạy. Cô đã có 25 sáng kiến kinh nghiệm được công nhận, trong đó 6 sáng kiến cấp tỉnh nổi bật như: “Làm thế nào để học sinh lớp 5 viết đúng chính tả” (2005), “Một số biện pháp nâng cao kỹ thuật chia số thập phân cho học sinh lớp 5” (2008), “Ứng dụng PowerPoint trong dạy học Toán – Tiếng Việt – Khoa học – Lịch sử – Địa lý – Đạo đức” (2012), hay “Một số giải pháp sử dụng sơ đồ tư duy trong dạy học” (2016–2017). Mỗi sáng kiến đều được cô đúc kết từ thực tiễn giảng dạy nơi vùng khó, thể hiện tâm huyết và sự sáng tạo không ngừng của người giáo viên yêu nghề, thương trò.
Không chỉ hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ giảng dạy, cô Phạm Thị Tố Vui còn là tấm gương tiêu biểu trong phong trào thi đua của ngành. Suốt 24 năm liền đạt danh hiệu Chiến sĩ thi đua cơ sở, nhiều năm được công nhận Chiến sĩ thi đua cấp tỉnh, 23 năm hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ, nhận Huân chương Lao động hạng Ba, được phong tặng danh hiệu Nhà giáo Ưu tú năm 2012 và Nhà giáo Nhân dân năm 2017 – những phần thưởng cao quý ghi nhận chặng đường cống hiến không mệt mỏi của cô đối với sự nghiệp giáo dục.
|
Đằng sau những tấm bằng khen, những danh hiệu là biết bao năm tháng bền bỉ vượt khó, là sự kiên định của người phụ nữ chọn gắn bó với nơi gian khổ. “Nghề dạy học đòi hỏi người thầy không chỉ có tri thức mà còn phải có tình yêu thương và lòng kiên trì. Ở vùng biên giới này, chỉ có tình thương mới giữ chân ta lại với học trò” – cô chia sẻ. Chính tình thương ấy đã giúp cô vượt qua bao mùa mưa nắng, bao chuyến đò cách trở, để “con đò tri thức” mà cô chèo vẫn đều đặn cập bến.
Ba mươi hai năm đứng lớp là ba mươi hai năm của yêu thương và kiên định. Cô giáo Phạm Thị Tố Vui vẫn ngày ngày cần mẫn bên bảng phấn, vẫn dịu dàng dạy trò từng con chữ, vẫn luôn tin rằng “mỗi hạt mầm tri thức gieo hôm nay sẽ nở hoa mai sau”. Giữa vùng biên Tây Ninh đầy nắng gió, cô chính là ngọn lửa nhỏ thắp sáng niềm tin, là minh chứng cho tình yêu nghề, yêu người – thứ ánh sáng đẹp đẽ nhất của người thầy.
NA