Sinh ra tại xã Hướng Phương, vùng quê còn nhiều khó khăn của tỉnh Quảng Trị, cô Thanh sớm mang trong mình ước mơ giản dị nhưng cao đẹp: được làm cô giáo, được dạy học cho những đứa trẻ ở vùng sâu, vùng xa - nơi con chữ vẫn còn là điều xa xỉ với nhiều em nhỏ. Năm 2009, sau khi tốt nghiệp, cô tình nguyện nộp đơn lên công tác tại Trường PTDTBT TH&THCS Lâm Thủy - khi đó còn thuộc tỉnh Quảng Bình. Quyết định ấy khiến nhiều người thân bất ngờ, bởi cô rời bỏ thành phố Đồng Hới với cuộc sống ổn định để đến một vùng núi hoang sơ, cách trung tâm hơn 120 km, trong đó có gần 50 km là đường rừng hiểm trở. Nhưng với cô, nơi nào cần giáo viên, nơi đó là quê hương thứ hai.
|
|
Những ngày đầu đặt chân đến Lâm Thủy, mọi thứ đều xa lạ và đầy thử thách. Đường đi gập ghềnh, điện chưa có, sóng điện thoại chập chờn, nước sinh hoạt phải gùi từ suối về. Học sinh chủ yếu là người Bru - Vân Kiều, nói tiếng Việt chưa sõi, nhiều em đi học với đôi chân trần, cơm ăn chưa đủ no. Có lúc, cô Thanh từng bật khóc giữa đêm vì tủi thân và nhớ nhà, nhưng chỉ cần nghĩ đến ánh mắt hồn nhiên của học trò, cô lại gạt nước mắt, tự nhủ phải kiên cường hơn, vì nơi đây cần mình.
Trong suốt hơn 16 năm gắn bó, cô Thanh đã trải qua đủ mọi gian nan của nghề dạy học vùng cao. Cô từng là nhân viên thiết bị, kiêm công tác phổ cập giáo dục, rồi mới chính thức được đứng lớp giảng dạy. Dù công việc nào, cô cũng làm với tất cả trách nhiệm và tình yêu nghề. Không chỉ dạy chữ, cô còn dạy các em cách sống, cách giữ gìn bản sắc dân tộc, cách tin vào bản thân.
Là người đầu tiên đưa học sinh Bru – Vân Kiều tham gia cuộc thi Khoa học Kỹ thuật cấp tỉnh, cô Thanh đã giúp học trò tự tin bước ra sân chơi lớn. Cô cũng là giáo viên đầu tiên của trường tham dự cuộc thi Giáo án tích hợp, được Phòng Giáo dục ghi nhận là tấm gương đổi mới, sáng tạo trong giảng dạy. Với cô, mỗi bài giảng không chỉ là kiến thức mà còn là câu chuyện về lòng kiên trì, tình thương và nghị lực sống.
|
|
Công việc bồi dưỡng học sinh giỏi với học sinh người dân tộc thiểu số là một thử thách không nhỏ. Các em vốn thiếu điều kiện học tập, vốn tiếng Việt hạn chế, ít được tiếp xúc với thế giới bên ngoài. Thế nhưng, với lòng kiên nhẫn và tình yêu thương, cô Thanh đã làm được điều mà ít người nghĩ tới. Trong 8 năm bồi dưỡng học sinh giỏi môn Sinh học 8, cô đã cùng học trò người Bru – Vân Kiều liên tiếp mang về 7 giải đồng đội và nhiều giải cá nhân cấp tỉnh, cấp khu vực. Đặc biệt, năm học 2024–2025, đội học sinh của cô xuất sắc giành giải Nhất đồng đội, vượt qua hơn 28 trường trong toàn tỉnh, khẳng định rằng học trò vùng cao hoàn toàn có thể vươn lên nếu được trao niềm tin và cơ hội.
Những thành tích ấy không chỉ là con số khô khan, mà là minh chứng cho cả một hành trình dài của cô Thanh – hành trình thắp sáng tri thức nơi núi rừng. Cô từng tâm sự: “Học trò vùng cao thiếu thốn trăm bề, nhưng nếu mình kiên trì, nếu mình tin vào các em, thì dù chậm hơn một chút, hoa vẫn sẽ nở.”
Không dừng lại ở việc dạy học, cô Thanh còn là tấm gương sáng trong phong trào thi đua của ngành. Nhiều năm liền, cô đạt danh hiệu Chiến sĩ thi đua cấp cơ sở, Chiến sĩ thi đua cấp tỉnh, được Liên đoàn Lao động tỉnh Quảng Bình (cũ) khen thưởng, được Chủ tịch UBND tỉnh và Bộ trưởng Bộ Giáo dục & Đào tạo tặng Bằng khen vì có thành tích xuất sắc trong công tác giảng dạy. Đặc biệt, cô được Phòng Giáo dục tuyên dương là nhân tố tiêu biểu trong công tác bồi dưỡng học sinh dân tộc thiểu số, góp phần thu hẹp khoảng cách giữa các trường miền núi và miền xuôi.
Bên cạnh những thành tích nổi bật, điều đáng quý nhất ở cô giáo Nguyễn Thị Thanh chính là tình yêu thương học trò và lòng tận hiến cho nghề. Cô luôn xem học sinh như con, quan tâm từng bữa ăn, giấc ngủ của các em. Mỗi lần trời mưa, cô lại lội suối đến từng bản, vận động học sinh trở lại trường. Có những đêm đông lạnh buốt, cô vẫn thức dậy giữa khu bán trú, kiểm tra xem các em đã đắp chăn đủ ấm chưa. Ở nơi biên giới xa xôi này, cô vừa là người thầy, vừa là người mẹ, vừa là người bạn đồng hành cùng học trò trên con đường đi tìm tri thức.
Giờ đây, khi đã bước sang năm thứ 17 của sự nghiệp, cô Thanh vẫn giữ nguyên niềm nhiệt huyết như ngày đầu tiên. Dẫu tuổi tác và những vất vả của miền rừng núi đã in hằn trên khuôn mặt, nhưng trong ánh mắt cô vẫn luôn sáng lên niềm tin và niềm vui khi được thấy học trò trưởng thành. Cô nói rằng, “mỗi ngày được đứng lớp, được nghe tiếng học trò cười là một ngày hạnh phúc.”
NA
















