Làm thế nào để thoát khỏi tình trạng kinh tế trì trệ ?

(CTG) Làm thế nào đưa kinh tế thoát khỏi tình trạng trì trệ? Giáo sư Joseph E. Stiglitz đã đưa ra một số giải pháp đáng được quan tâm, lưu ý.




Giáo sư Joseph E. Stiglitz, người đoạt giải thưởng Nobel kinh tế năm 2001


Tờ “Financial Times” (Thời báo tài chính) của Anh ngày 11/8 đăng bài của Giáo sư Joseph E. Stiglitz, người đoạt giải thưởng Nobel kinh tế năm 2001 và  hiện là giảng viên Trường đại học Columbia (Mỹ), đánh giá về tình hình này như sau:

Những ngày qua, trong một loạt những thông tin xấu thì cũng có những tin tốt lành. Dư luận cho rằng cả ba cơ quan đánh giá tín nhiệm thế giới sẽ đều đồng loạt hạ mức tín nhiệm tín dụng Mỹ, nhưng điều này không xảy ra. Dư luận dự đoán thị trường chứng khoán toàn cầu sẽ sụp đổ, nhưng điều này cũng không xảy ra. Dư luận cho rằng Mỹ sẽ vỡ nợ, nhưng thế giới lại đổ xô mua trái phiếu Bộ Tài chính Mỹ. Dư luận cho rằng kinh tế thế giới lại bước vào “Thời kỳ đại suy thoái mới” (New Great Recession), nhưng chưa hẳn như vậy. 

Một số người cho rằng chính phủ các nước châu Âu và Mỹ bó tay, hết cách vực dậy một cách có hiệu quả nền kinh tế đang lâm vào khủng hoảng nợ công hiện nay. Nhưng quan điểm này chưa hẳn là đúng đắn.

Trước khi khủng hoảng nợ công xảy ra, kinh tế Mỹ ở  trong tình trạng bóng xà phòng và kinh tế thế giới cũng như vậy. Sau khi bóng xà phòng bị vỡ, thị trường tiền tệ và nhà đất trở nên xấu đi nghiêm trọng, từ đó làm cho tiêu dùng suy giảm. Để đối phó khó khăn trên, các nước ở hai bên bờ Đại Tây Dương đều áp dụng chính sách tài chính thắt chặt và khắc khổ, cắt giảm chi tiêu. Hậu quả của chính sách này là không thể bù đắp được phần thiếu hụt nhu cầu tiêu dùng trên thị trường, làm cho các doanh nghiệp không muốn đầu tư, kể cả các doanh nghiệp có nguồn tài chính dồi dào. Chính sách tiền tệ thắt chặt sai lầm này đã đẩy thế giới lâm vào tình trạng khốn khó như hiện nay mà chưa thể thoát ra được. Vì vậy, QE2 của FED đã không mấy tác dụng, cho dù có QE3 thì cũng không xoay chuyển được tình hình. 

Việc Hội đồng thị trường mở liên bang Mỹ (FOMC) ngày 10/8 tuyên bố duy trì lãi suất thấp tới năm 2013 có thể là đúng đắn. Bởi vì đây là cách khuyến khích các doanh nghiệp đưa tiền ra đầu tư để thu lợi nhuận, như vậy vừa kích thích kinh tế tăng trưởng, nhà nước vừa thu được thuế. Nếu duy trì trong thời gian dài thì có thể giảm bớt tỉ lệ nợ công so với GDP, đồng thời có thể kéo dài được thời gian nợ công. 

Trong năm tài chính này, các chính phủ cần tiến hành điều chỉnh cơ cấu chi tiêu và thu thuế làm cho kinh tế tăng trưởng, như vậy lại có thể chống đỡ được khủng hoảng nợ công. Những điều chỉnh có thể tiến hành trong các lĩnh vực như giảm thuế thu nhập cá nhân, tăng thuế đối với tầng lớp giàu có, giảm thuế đáng kể cho các doanh nghiệp mạnh dạn đầu tư, tăng thuế đối với doanh nghiệp không chịu đầu tư. 

Kinh nghiệm thời gian qua cho thấy, chính phủ các nước châu Âu đã chậm chễ trong việc áp dụng chính sách này, nên làm cho tình hình trở nên càng xấu hơn. Chính vì vậy, chính sách tiền tệ thắt chặt đã không còn hiệu quả như mong muốn, tăng trưởng kinh tế càng giảm sút, thâm hụt ngân sách tăng lên, làm dân chúng mất lòng tin, khiến tình hình đã xấu càng xấu hơn.

S&P công bố hạ mức tín nhiệm đối với tín dụng Mỹ là tiếng chuông cảnh báo. Bởi vì lâu nay dân Mỹ cho rằng họ chẳng bao giờ bị vỡ nợ, bởi lẽ đồng tiền của họ là đồng tiền chung của thế giới trong khi máy in tiền lại nằm trong tay họ. Cảnh báo của S&P đưa ra đúng lúc để nhắc nhở nước Mỹ và thế giới về điều này. Trên thực tế, một cơ quan đánh giá độ tin cậy của hệ thống tiền tệ một nước không có ý nghĩa lớn đối với kinh tế nước đó. Bởi vì, cả một hệ thống bộ máy nhà nước cùng hàng loạt các chuyên gia cố vấn sừng sỏ giải quyết những vấn đề trong thực tiễn, phải hơn hẳn một cơ quan đánh giá bình xét chuyên môn. Chính vì vậy mà lãnh đạo các nước Châu Âu và Mỹ đã có lý khi họ khuyến cáo dư luận không nên quá phụ thuộc và tin vào kết luận của một hay hai cơ quan đánh giá tín nhiệm.

So sánh nợ công của EU và Mỹ cho thấy mức độ trầm trọng của EU không bằng Mỹ, nhưng do quyết sách của chính phủ các nước này chưa thỏa đáng nên đã làm cho  tình hình của họ nghiêm trọng hơn. Chính phủ các nước Châu Âu cho rằng “chính sách kinh tế thắt chặt và khắc khổ” chính là “thần dược” giải quyết nợ công, nhưng gần đây họ mới nhận ra rằng vấn đề là ở chỗ phải tìm cách đẩy kinh tế tăng trưởng, chứ không chỉ đơn thuần là thắt chặt. Nếu như họ sớm nhận thức được điều này thì kinh tế các nước Ireland, Hy Lạp, Tây Ban Nha không trầm trọng như hiện nay. 

Nhưng tăng trưởng phải giải quyết được việc làm cho người dân, nếu mức độ tăng trưởng chỉ quanh quẩn ở 1% - 2% cũng không giải quyết được vấn đề. Hiện nay cả Mỹ và EU đều trong tình trạng này.

Trong những năm qua, cả Mỹ và EU đều nói tình trạng trì trệ thời gian dài của kinh tế Nhật Bản là bài học đắt giá đối với các nước và phải rút kinh nghiệm. Nhưng trên thực tế, họ chẳng học hỏi và rút kinh nghiệm gì. Bởi vì, mức độ kích thích kinh tế tăng trưởng mà các nước áp dụng vừa quá yếu vừa ngắn ngủi, hơn nữa lại dàn trải mà không có quy hoạch, họ không đốc thúc ngân hàng nới lỏng cho vay kích thích doanh nghiệp đầu tư, nên các biện pháp hầu như không có hiệu quả. 

Điều tai hại thời gian qua là EU và Mỹ đều bưng bít thông tin đối với dân chúng. Họ chỉ nhấn mạnh “lạc quan” mà không nói rõ mức độ nghiêm trọng cho dân chúng biết. Nếu họ nói rõ thực trạng cho dân chúng biết để trưng cầu thêm các kiến nghị và biện pháp hữu hiệu thì kinh tế có thể không bị sa vào tình trạng như hiện nay.

Tình hình xấu đi như hiện nay làm dân chúng tin rằng cho dù chính phủ có áp dụng biện pháp nào đi nữa thì tình hình vẫn trở nên tồi tệ hơn. Bởi vậy, duy trì kinh tế trì trệ trong thời gian dài, không để xảy ra vỡ nợ và khủng hoảng là tương lai lạc quan nhất đối với các nước thời gian tới.


Theo Tầm Nhìn