Học ở Việt Nam, liên thông ở Mỹ
Từ nhiều năm qua, ĐHQG TP. HCM luôn coi “văn hóa chất lượng” là yếu tố được quan tâm và ưu tiên phát triển. Do đó, đại học này chủ trương triển khai đồng bộ các hoạt động đảm bảo chất lượng. ĐHQG TP. HCM đã đạt được một số kết quả quan trọng, trong đó, đã xây dựng được một hệ thống đảm bảo chất lượng xuyên suốt từ cấp ĐHQG TP. HCM đến cấp trường thành viên, áp dụng triển khai rộng rãi phương thức CDIO trong phát triển chương trình đào tạo. Hiện nay, ĐHQG TP. HCM đang dẫn đầu cả nước, với 21 chương trình được đánh giá theo tiêu chuẩn AUN – QA của Mạng lưới các trường đại học Đông Nam Á. Trong đó, có 1 chương trình đạt 5/7 điểm và là số điểm cao thứ hai khu vực Đông Nam Á.
Trường ĐH Bách khoa (ĐHQG TP. HCM) là nơi đầu tiên của Việt Nam đạt chuẩn kiểm định ABET của Hoa Kỳ đối với 2 ngành: Khoa học Máy tính và Kỹ thuật Máy tính. Hai ngành học này được công nhận từ năm 2014 -2019, khi hết hạn thì trường sẽ được đánh giá lại. Trường ĐH Bách khoa bắt đầu kế hoạch hoàn thiện các tiêu chí theo tiêu chuẩn ABET từ năm 2008. Đến năm 2013, nhóm kiểm định viên của tổ chức này đã đến Việt Nam để thẩm định. Đến nay, ABET đã kiểm định chất lượng cho hơn 3.460 chương trình đào tạo của gần 700 trường đại học ở 28 quốc gia. Ở khu vực Đông Nam Á, một số chương trình đào tạo ở các nước Singapore, Philippines và Indonesia đã được kiểm định bởi ABET. PGS. TS Phan Thanh Bình, Giám đốc ĐHQG TP. HCM cho biết, trong thời gian tới, đại học này sẽ tiếp tục thực hiện đánh giá ngoài nhiều chương trình theo chuẩn khu vực và quốc tế, như: AUN – QA, ABET, AACBS… để thúc đẩy việc nâng cao chất lượng đào tạo và nâng tầm đại học.
Trường ĐH Hoa Sen đã trở thành trường đại học đầu tiên của Việt Nam có 5 chương trình đào tạo được tổ chức ACBSP của Hoa Kỳ kiểm định. Năm ngành này đều trực thuộc khoa Kinh tế Thương mại, gồm: Marketing, Quản trị Kinh doanh, Quản trị Nhân lực, Kế toán, Tài chính Ngân hàng. Trao đổi với Sinh Viên Việt Nam, TS Bùi Trân Phượng, Hiệu trưởng nhà trường cho biết: “Trong xu thế hội nhập toàn cầu, tất cả các ngành, lĩnh vực cần phải có một tiêu chuẩn chất lượng nhất định và trường đại học cũng không ngoại lệ. Đó cũng là lý do mà trường chọn tham gia kiểm định bởi ACBSP. Theo học một chương trình do ACBSP kiểm định, sinh viên được trang bị đầy đủ kiến thức, kỹ năng và thái độ làm việc đáp ứng nhu cầu doanh nghiệp, dễ dàng thành công trong thời kỳ hội nhập kinh tế. Sinh viên cũng có dịp được giao lưu, cọ xát thông qua tham dự kỳ thi chung với sinh viên nhiều trường khác trong cùng hệ thống kiểm định. Đặc biệt, bằng cấp được cấp bởi trường ĐH Hoa Sen sẽ là “tấm giấy thông hành”, giúp sinh viên có thể theo học chương trình bậc cao hơn tại các trường đại học uy tín trên khắp thế giới”.
![]() Sinh viên ngành Marketing, trường ĐH Hoa Sen trong giờ học. Đây là một trong 5 ngành học được ACBSP của Hoa Kỳ kiểm định.
|
TS Nguyễn Thiên Phú, Phó Trưởng khoa Kinh tế Thương mại, trường ĐH Hoa Sen cho biết, khoa chính thức là một ứng cử viên của ACBSP từ năm 2013. Từ đó, khoa nỗ lực hoàn chỉnh hồ sơ, chuẩn hóa chương trình đào tạo và thực hiện cam kết đào tạo. Năm 2014, chuyên gia cố vấn của ACBSP đến thăm trường và thực hiện quy trình kiểm định mẫu. Vào tháng 10/2015, đoàn kiểm định gồm 3 chuyên gia đến trường đánh giá các hoạt động dạy, học và dịch vụ cung cấp cho sinh viên. Đầu tháng 12/2015, tại kỳ họp định kỳ 2 lần một năm, Hội đồng kiểm định ACBSP đã công nhận lần đầu đối với 5 chương trình của khoa Kinh tế Thương mại. Ngoài việc áp dụng các quy trình chuẩn mực và thông lệ được ACBSP đưa ra, khoa Kinh tế Thương mại phải nộp báo cáo tự đánh giá 2 năm/lần. Đến năm thứ 10, sau khi được công nhận lần đầu, khoa phải thực hiện báo cáo tự đánh giá và tiếp đoàn đánh giá một lần nữa để được công nhận trong 10 năm kế tiếp. “Đây là thành quả của nhiều năm theo đuổi kiểm định quốc tế và là thành công khởi đầu trong năm mới 2016 của trường ĐH Hoa Sen. Sắp tới, trường sẽ hoàn tất hồ sơ và tiến hành kiểm định các ngành thuộc nhóm Du lịch, Nhà hàng, Khách sạn và một số ngành Kinh tế khác”, ông Phú nói.
Nâng chuẩn tiếng Anh
Nhiều năm qua, các trường đại học cao đẳng ở TP. HCM đã nâng số tiết dạy tiếng Anh và mở chuyên ngành bằng tiếng Anh để giúp sinh viên hội nhập. Trường ĐH Tôn Đức Thắng dành nguyên tòa nhà E cao 8 tầng để dạy tiếng Anh tăng cường cho sinh viên. Số tiết tiếng Anh mà sinh viên được học nhiều gấp 3 lần so với quy định của Bộ GD – ĐT. Trường ĐH Quốc tế, ĐHQG TP. HCM, thực hiện việc giảng dạy hoàn toàn bằng tiếng Anh. Sinh viên của trường phải có trình độ tiếng Anh tối thiểu IELTS 6.0 để bắt đầu chương trình chính thức. Còn các trường thành viên khác của ĐHQG TP. HCM, việc dạy học bằng tiếng Anh mới chỉ được triển khai ở một số chương trình hoặc một số môn chuyên ngành. Trong 2 năm 2014 và 2015, ĐHQG TP. HCM có 64% số ngành triển khai các học phần chuyên môn giảng dạy bằng tiếng Anh. Mục tiêu đến năm 2020, đại học này sẽ mở rộng việc dạy chuyên ngành bằng tiếng Anh ở hầu hết các ngành học.
Tương tự, trường ĐH Hoa Sen cũng triển khai dạy học bằng tiếng Anh trong một số ngành theo 2 hình thức: Chương trình tiếng Anh và tiếng Việt. Trước khi tốt nghiệp, sinh viên phải có một trong các chứng chỉ quốc tế ở ngoại ngữ thứ nhất tiếng Anh (IELTS 5.0) hoặc tiếng Pháp (DELF B1).
Trường ĐH Kinh tế TP. HCM hiện cũng bắt đầu giảng dạy hoàn toàn bằng tiếng Anh với chương trình cử nhân tài năng. Hiện tại, trường này có chuẩn đầu ra tiếng Anh TOEIC, với mức 450 – 550, tùy theo ngành. ThS Nguyễn Văn Đương, Phó Trưởng phòng Đào tạo nhà trường cho biết, trường sẽ tiếp tục nâng chuẩn này lên mức cao hơn với tối thiểu 500. Đồng thời, ngay từ đầu vào, trường cũng thay đổi hướng tuyển sinh bằng việc đưa thêm tiếng Anh vào các môn xét tuyển. Ông Đương cho rằng, thời kỳ hội nhập thì ngoại ngữ là chìa khóa để sinh viên ra trường tìm được việc làm. Vì vậy, việc tăng chuẩn ngoại ngữ là điều bắt buộc phải làm, nhằm nâng cao chất lượng đào tạo thời gian tới.
Tại trường CĐ nghề Du lịch Sài Gòn, sự chuẩn bị cho hội nhập Cộng đồng ASEAN đã được thực hiện 2 năm qua. ThS Phan Bửu Toàn, Phó Hiệu trưởng nhà trường cho biết, chương trình đào tạo của mỗi ngành đều có 16 tiết chuyên đề hội nhập quốc tế. Trường đã tổ chức rất nhiều hội thảo, tuần lễ du lịch mời các cơ quan xúc tiến du lịch của các nước trong khối và các công ty du lịch trong nước.
Phải tự thay đổi
GS. TSKH Bùi Văn Ga, Thứ trưởng Bộ GD – ĐT nhìn nhận, nước ta đang gặp nhiều thách thức trong quá trình hội nhập quốc tế. Khó khăn đầu tiên là nguồn lực đầu tư cho giáo dục đại học còn thấp, chi phí đơn vị trên mỗi sinh viên bình quân mỗi năm chưa tới 500 đôla. Con số này so với các nước trong khu vực còn quá khiêm tốn, dẫn tới nhiều hệ lụy trong việc tạo điều kiện phát huy năng lực sáng tạo của sinh viên. Giảng viên phải thực hiện khối lượng giảng dạy lớn, không còn thời gian chăm lo cho công tác nghiên cứu khoa học. Ngoại ngữ là công cụ quan trọng để tiếp cận thông tin, giao lưu và hội nhập quốc tế nhưng trình độ ngoại ngữ của giảng viên các trường đại học Việt Nam, nhất là tiếng Anh còn hạn chế khiến quá trình hội nhập gặp phải rào cản lớn. “Chúng ta cần đẩy nhanh tốc độ hội nhập quốc tế. Các trường cần chủ động tạo mọi điều kiện cần thiết để trao đổi sinh viên và giảng viên, tăng cường trao đổi học thuật với các nước trong khu vực và quốc tế. Bộ GD – ĐT đang phối hợp với Bộ LĐ – TB – XH khẩn trương xây dựng khung trình độ quốc gia, hoàn thiện nghị định phân tầng, xếp hạng các cơ sở giáo dục đại học, có chính sách thu hút các nhà khoa học, giảng viên ở nước ngoài về làm việc tại Việt Nam”, ông Ga nói.
TS Phạm Thị Ly (Viện Đào tạo quốc tế, ĐHQG TP. HCM) cho rằng, quốc tế hóa trở thành một áp lực không thể làm ngơ đối với sự sinh tồn của các trường đại học. Các trường đại học không thể hoạt động hiệu quả nếu chỉ đóng khuôn trong nước. Môi trường toàn cầu hóa đòi hỏi các trường phải kết nối xuyên quốc gia, hiểu biết lẫn nhau, làm việc cùng nhau và tạo ra một thế hệ công dân toàn cầu mới.
Các trường đại học nước ta đã được quản lý và vận hành theo quan điểm của giới hàn lâm, với nguồn tài trợ chủ yếu của Nhà nước. Giờ đây, tình thế đó không thể tiếp diễn. Các trường phải đáp ứng được đòi hỏi của nhiều bên liên quan. Trước hết là người học và gia đình họ, những người đã trả học phí và có quyền được nhận một kết quả xứng đáng. Bên cạnh đó, còn có các nhà tuyển dụng, những người tiêu thụ sản phẩm mà các trường tạo ra, các nhà làm chính sách… Mỗi bên có những yêu cầu khác nhau và quan niệm khác nhau về vai trò và trách nhiệm của các trường đại học.
TS Phạm Thị Ly chia sẻ: “Các trường đại học phải xem lại ý nghĩa tồn tại của mình đối với xã hội và chứng minh rằng, trường là một tổ chức thiết yếu, không phải vì nó cấp cho người học một tấm bằng như một cái vé vào đời. Tấm bằng phải mang lại cho người học những trải nghiệm và những giá trị mà họ không thể có nếu không trải qua môi trường đại học”.
|
Theo SVVN