Bàn tay hữu hình
Hậu quả thứ ba của cuộc khủng hoảng là sự nổi lên của một loạt các cuộc thảo luận mới về chính sách công nghiệp - một chiến lược quốc gia về phát triển các lĩnh vực công nghiệp đặc biệt, thường thông qua sự hỗ trợ như tín dụng lãi suất thấp hay các khoản trợ cấp toàn phần, hoặc thông qua sự quản lý của nhà nước đối với các ngân hàng phát triển. Các chính sách như vậy bị loại bỏ vì những thất bại nguy hiểm những năm 1980 và 1990 trong việc hỗ trợ không hiệu quả các công ty trong nước với chi phí tài chính cao.
Nhưng cuộc khủng hoảng và cách đối phó hiệu quả ở một số nước sẽ củng cố quan niệm cho rằng các nhà kỹ trị có năng lực ở các nước đang phát triển có thể quản lý hiệu quả sự can thiệp của nhà nước vào lĩnh vực sản xuất. Ví dụ Brazil đã sử dụng ngân hàng phát triển của chính phủ để nhanh chóng trực tiếp cho vay như một phần của chương trình kích thích sau khủng hoảng, và Trung Quốc đã làm điều tương tự với các ngân hàng nhà nước của mình.
Tuy nhiên, chính sách công nghiệp mới này không phải là những người chiến thắng hay tạo ra sự thay đổi lớn về cấu trúc sản xuất. Nó nhằm giải quyết các vấn đề điều phối và các hàng rào khác làm nản lòng đầu tư tư nhân vào các ngành công nghiệp mới và công nghệ, những khó khăn mà một mình các lực lượng thị trường không thể vượt qua.
Chẳng hạn để thúc đẩy một ngành công nghiệp thời trang tân tiến ở Tây Phi, các chính phủ phải đảm bảo một nguồn cung bền vững về hàng dệt may hoặc trợ cấp xây dựng cầu cảng nhằm tránh tắc nghẽn xuất khẩu. Ý tưởng là thông qua hỗ trợ một số tiền ban đầu hoặc trợ cấp cho các nguy cơ khác và xử lý một cách có hệ thống vấn đề về cơ sở hạ tầng công cộng, các chính phủ có thể giúp các nhà đầu tư tư nhân vượt qua được khó khăn là chi phí cao khi trở thành những người tiên phong trong các lĩnh vực mới.
![]() |
Trong ba thập kỷ qua, các thể chế phát triển có trụ sở tại Washington cho rằng tăng trưởng bị đe dọa bởi sự mất năng lực và tham nhũng của chính phủ hơn là bởi những hỏng hóc trong chính thị trường. Giờ đây, khi chủ nghĩa tư bản kiểu Mỹ đã sụp đổ khỏi bệ đỡ của mình, quan điểm này liệu có bắt đầu thay đổi? Liệu ý tưởng cho rằng nhà nước có thể đóng vai trò tích cực hơn sẽ có sức hút hơn? Đối với một quốc gia đang phát triển, câu trả lời phụ thuộc vào đánh giá về khả năng và cách quản lý của nhà nước ấy. Bởi vì hầu hết chỉ trích chính sách công nghiệp chưa bao giờ mang bản chất kinh tế mà mang tính chính trị, vì chắc chắn là việc ra quyết định kinh tế trong các nước đang phát triển không tránh khỏi các sức ép chính trị.
Những người chỉ trích cho rằng các nhà hoạch định chính sách nên duy trì các biện pháp bảo hộ thật lâu sau khi đã đạt mục đích ban đầu là khởi động các công ty trong nước. Các chính sách công nghiệp như giảm sự phụ thuộc vào nhập khẩu và thúc đẩy các công ty non trẻ, dù sau này bị Washington cười nhạo, nhưng trên thực tế đã tạo ra tỷ lệ tăng trưởng ấn tượng trong những năm 1950 và 1960 tại Đông Á và Mỹ Latinh. Tuy nhiên, vấn đề là các chính phủ tại Mỹ Latinh không thể tháo bỏ sự bảo hộ này vì lý do chính trị, và vì vậy các công ty trong nước của họ không thể cạnh tranh toàn cầu.
Vì vậy, các nhà kỹ trị tại các nước đang phát triển theo dõi việc áp dụng các chính sách công nghiệp nên cân nhắc yếu tố chính trị. Liệu có tồn tại một công chức có đủ năng lực và sự tự chủ trước sức ép chính trị? Liệu công chức ấy có đủ tiền để duy trì một chương trình như vậy? Liệu anh ta có thể đưa ra các quyết định chính trị khó khăn, như hủy các chính sách khi thấy không còn cần thiết? Hầu hết trường hợp áp dụng chính sách công nghiệp thành công đều ở Đông Á, nơi có truyền thống lâu đời về các lãnh đạo kỹ trị mạnh mẽ. Nước nào thiếu "bảo bối" này cần phải thận trọng.
Bắt công chức làm việc
Nếu các quốc gia muốn thúc đẩy phát triển công nghiệp và tạo ra một mạng lưới an sinh xã hội, cần phải cải cách khối nhà nước; hậu quả thứ tư của cuộc khủng hoảng là nhắc lại cái giá đau đớn của việc đã không làm như vậy. Tại Mỹ, các cơ quan điều tiết thường nghèo nên khó thu hút nhân lực có trình độ cao, lại còn phải đối phó với phe đối lập chính trị. Điều này không có gì ngạc nhiên: ngụ ý của học thuyết của Reagan - Thatcher là niềm tin rằng các thị trường có thể thay thế cho chính phủ hiệu quả. Cuộc khủng hoảng đã chỉ ra rằng các thị trường không được điều tiết hoặc điều tiết kém có thể phải trả những cái giá cực lớn.
Giới lãnh đạo trong cả thế giới phát triển và đang phát triển đã ngạc nhiên trước khả năng bật nảy kỳ diệu của Trung Quốc sau khủng hoảng, kết quả của một cỗ máy quản lý và hoạch định chính sách chặt chẽ từ trên xuống. Đáp lại, các lãnh đạo chính trị trong các nước đang phát triển hiện nay kết hợp tính hiệu quả và năng lực với các hệ thống chính trị chuyên quyền. Nhưng vẫn có những chế độ độc đoán và không có năng lực. Điều làm cho Trung Quốc khác biệt chính là một đội ngũ công chức, ít nhất ở cấp cao, có khả năng quản lý và điều phối các chính sách phức tạp. Trong số các nước có thu nhập thấp, điều đó khiến Trung Quốc là một ngoại lệ.
Thúc đẩy hiệu quả các lĩnh vực nhà nước là một trong những thách thức phát triển khó nhất mà thế giới đang phải đối mặt. Các thể chế phát triển như Ngân hàng Thế giới (WB) và Ban Phát triển Quốc tế của Vương quốc Anh đã hỗ trợ các chương trình củng cố khối nhà nước, thúc đẩy sự quản lý tốt, và đấu tranh chống tham nhũng trong 15 năm qua mà chưa đạt kết quả rõ rệt nào. Việc cả các nhà điều tiết tài chính ở Mỹ và Anh cũng thất bại khi sử dụng quyền lực của mình hoặc đuổi theo các thị trường đang diễn biến nhanh chóng, là lời nhắc nhở rằng để khối doanh nghiệp nhà nước hoạt động hiệu quả vẫn là một thách thức kể cả ở các nước phát riển nhất.
Tại sao việc cải thiện lĩnh vực nhà nước ở các nước đang phát triển đạt ít tiến bộ như vậy? Vấn đề đầu tiên là đội ngũ công chức của họ thường phục vụ các chính phủ là những liên mình vì lợi nhuận, chỉ hành động phục vụ lợi ích của mình thay vì phục vụ lợi ích chung. Các nhà tài trợ bên ngoài không thể buộc họ thay đổi, trừ cơ chế như tiến trình gia nhập Liên minh châu Âu (EU).
Thứ hai, các thể chế hiệu quả buộc phải mang tính bản địa, phản ánh thực tế chính trị, xã hội và văn hóa của một nước. Sự phát triển của các bộ máy nhà nước không vụ lợi ở phương Tây là kết quả của một quá trình dài và đau đớn, với các nhân tố nằm ngoài nền kinh tế (như nhu cầu huy động vào chiến tranh) đóng một vai trò lớn trong việc tạo ra các thể chế nhà nước mạnh (như đội ngũ công chức hiệu quả nổi tiếng của nước Phổ ngày trước). Các thể chế như luật pháp sẽ hiếm khi hoạt động nếu chúng chỉ đơn giản là sự sao chép từ bên ngoài. Cuối cùng, cải cách lĩnh vực công đòi hỏi song song một tiến trình xây dựng quốc gia. Nếu một xã hội không có cảm nhận rõ ràng về bản sắc dân tộc và một lợi ích chung, thì các cá nhân sẽ ít trung thành với nó hơn là với nhóm dân tộc, bộ lạc hay mạng lưới bảo trợ của mình.
Hướng tới đa cực
Nhiều năm qua, các nhà sử học có thể coi cuộc khủng hoảng tài chính là sự kết thúc của vai trò bá chủ kinh tế của Mỹ trên thương trường quốc tế. Nhưng xu hướng một thế giới đa cực đã bắt đầu từ trước đó rất nhiều; sự sụp đổ của các thị trường tài chính phương Tây và sự phục hồi yếu kém của chúng chỉ đơn giản là đã thúc đẩy tiến trình này.
Ngay từ trước khủng hoảng, các thể chế quốc tế được hình thành sau chiến tranh thế giới II để đối phó với thách thức về kinh tế và an ninh đã ở trạng thái căng thẳng và cần cải cách. Cấu trúc quản lý của IMF và WB phản ánh thực tế kinh tế đã lỗi thời. Bắt đầu từ những năm 1990 và tiếp tục trong thế kỷ mới, các thể chế Bretton Woods phải chịu ngày càng nhiều sức ép trao nhiều quyền hơn các các nước kinh tế thị trường mới nổi như Brazil và Trung Quốc. Trong khi đó, nhóm 7 nước công nghiệp phát triển (G-7) vẫn là ban lãnh đạo không chính thức của thế giới trong các vấn đề cần sự phối hợp kinh tế toàn cầu, dù có các trung tâm quyền lực khác nổi lên.
Cuộc khủng hoảng tài chính cuối cùng đã dẫn tới việc G-7 không còn là một nơi ưu tiên mỗi khi cần phối hợp chính sách kinh tế toàn cầu, thay thế vào đó là nhóm G-20 gồm các nước mới nổi và phát triển. Tháng 11/2008, nguyên thủ các quốc gia G-20 đã họp ở Washington, để phối hợp một chương trình kích thích kinh tế toàn cầu - một cuộc họp sau đó đã trở thành một thể chế quốc tế có tổ chức. Vì khác với G-7, G-20 có sự tham gia của các nước mới nổi như Brazil, Trung Quốc và Ấn Độ nên nhu cầu tăng cường phối hợp kinh tế đã công nhận, dù hơi chậm, một nhóm mới gồm các tác nhân kinh tế toàn cầu.
Cuộc khủng hoảng cũng cho thấy hơi thở mới và tính hợp pháp mới của IMF và WB. Trước đó, IMF bị xem như sắp lỗi thời. Các thị trường vốn tư nhân cung cấp cho các quốc gia nguồn tài chính với thời hạn thuận lợi hơn mà không có các điều kiện mà IMF thường đòi hỏi mỗi khi cho vay. Tổ chức này đã gặp trục trặc trong việc tài trợ cho chính các hoạt động của mình và đang trong quá trình cắt giảm nhân viên.
Nhưng toàn bộ bức tranh này đã thay đổi vào năm 2009, khi các lãnh đạo G-20 nhất trí đảm bảo rằng các thể chế Bretton Woods sẽ có thêm nguồn tài chính tới 1.000 tỷ USD để hỗ trợ các nước tốt hơn khi thiếu vốn trong tương lai. Các nước như Brazil và Trung Quốc nằm trong số những cổ đông chính cho quỹ đặc biệt này, và quỹ đã hỗ tợ Hy Lạp, Hungary, Iceland, Ireland, Latvia, Pakistan, và Ukraine.
Với việc đề nghị các thị trường mới nổi phải có vai trò lãnh đạo lớn hơn trên thương trường quốc tế, các nền dân chủ phương Tây đã ngầm chấp nhận rằng họ không còn khả năng một mình quản lý các vấn đề kinh tế toàn cầu. Nhưng cái gọi là "sự nổi lên của phần còn lại" không phải chỉ là về sức mạnh kinh tế và chính trị, đó còn là cuộc cạnh tranh toàn cầu về ý tưởng và mô hình.
Phương Tây, và đặc biệt là Mỹ, không còn được xem là trung tâm duy nhất của những suy nghĩ cách tân tiến về chính sách xã hội. Ví dụ như các mô hình cho vay tiền có điều kiện đã được đưa ra và thực hiện đầu tiên tại Mỹ Latinh. Cũng như với chính sách công nghiệp, phương Tây đã đóng góp suy nghĩ cách tân nho nhỏ trong địa hạt này 30 năm qua. Người ta đã hướng đến các nước mới nổi, thay vì thế giới phát triển, để thấy các mô hình được vận hành thành công.
Và liên quan đến các tổ chức quốc tế, tiếng nói và ý tưởng của Mỹ và châu Âu đã có ít trọng lượng hơn trước trong khi các nước mới nổi - những nước đã trở thành nhà tài trợ lớn cho các thể chế tài chính quốc tế - đang ngày càng có tiếng nói và nhiều ý tưởng hơn.
Tất cả các điều trên cho thấy một sự chuyển dịch rõ ràng trong chương trình phát triển. Thông thường, đây là một chương trình được phát động tại thế giới phát triển và được thực hiện - hoặc áp đặt - tại thế giới đang phát triển. Mỹ, EU, và Nhật Bản sẽ tiếp tục là những nguồn đáng kể về nguồn lực kinh tế và ý tưởng, nhưng các thị trường đang nổi giờ đây đang bước vào đấu trường này và sẽ trở thành những người chơi có tiếng nói. Các nước như Brazil, Trung Quốc, Ấn Độ và Nam Phi sẽ là những nhà tài trợ và cũng là những nước thụ hưởng các nguồn lực cho phát triển và sử dụng các nguồn lực này tốt nhất.
Một tỷ lệ lớn người nghèo trên thế giới sống tại các nước này, nhưng họ đã có được sự tôn trọng mới trên trường quốc tế trong lĩnh vực kinh tế, chính trị và tri thức. Trên thực tế, phát triển chưa bao giờ là cái mà người giàu ban cho người nghèo, đúng hơn là cái mà người nghèo đạt được cho chính mình. Dường như các cường quốc phương Tây rốt cuộc đang ý thức được thực tế này sau một cuộc khủng hoảng tài chính mà đối với họ là chưa hề trôi qua./.
Theo Tuần Việt Nam