Tổng quan về liệu pháp miễn dịch (Immunotherapy)

(CTG) Ung thư là một trong những bệnh nguy hiểm và đáng sợ nhất ở người và nhiều loài động vật, cho đến nay mặc dù đã tốn rất nhiều công sức nhưng loài người vẫn chưa tìm được phương pháp chữa trị căn bệnh này một cách hiệu quả và triệt để.




Hiện có ba phương pháp chủ yếu được sử dụng để điều trị các bệnh ung thư lâm sàng đó là phẫu thuật (surgery), xạ trị (radiotherapy) và hóa học trị liệu (chemotherapy). Ngoài ra, phương pháp điều trị sinh học (biological therapy) bao gồm miễn dịch trị liệu (immunotherapy) và hoóc-môn liệu pháp (hormonetherapy) cũng đang được sử dụng rộng rãi trong điều trị ung thư.

Những kỹ thuật giải phẫu và điều kiện liên quan đến phẫu thuật đã được cải tiến đáng kể trong những thập kỷ gần đây. Tuy nhiên thật không may mắn, tỷ lệ sống của các bệnh nhân ung thư khi được điều trị bằng phương pháp này không cải thiện mấy. Phẫu thuật thường gây nên những tổn thương không hồi phục cho bệnh nhân, làm giảm chất lượng cuộc sống của người bệnh (như sẹo ảnh hưởng đến thẩm mỹ, rối loại cơ năng vận động,..). Hơn nữa phẫu thuật chỉ là phương pháp tạm thời đối với những bệnh ung thư di căn, thậm chí có thể làm tình trạng bệnh trầm trọng hơn.

Xạ trị là phương pháp quan trọng khác để điều trị ung thư bằng các tia phóng xạ. Tia X (X-ray) gây ra những tổn thương nghiêm trọng đối với tế bào cũng như ảnh hưởng đến sự phân bào của tế bào ung thư và các tế bào bị tác động khác, gây ra chết hoặc bất hoạt tế bào. Mặc dù sự tổn thương các tế bào bình thường xung quanh có thể được khắc phục hoặc hạn chế, nhưng những ảnh hưởng khác của tia phóng xạ như hiện tượng viêm niêm mạc (mucositis), tổn thương tủy xương và viêm da (dermatitis) có thể rất nghiêm trọng trong một số ca bệnh.

Hóa học trị liệu là phương pháp đưa các chất có tính độc vào cơ thể một cách có hệ thống và mục đích. Mặc dù, nó thường xuyên được sử dụng như một phương pháp bổ trợ cho phương pháp phẫu thuật hoặc xạ trị, nhưng vai trò không thể thiếu của phương pháp này đã được khẳng định, đặc biệt với các thuốc mới và cánh sử dụng mới.

Hoóc-môn liệu pháp là phương pháp sử dụng những tác nhân liên quan đến hoóc-môn để ức chế hay chữa các bệnh ung thư có biểu hiện các hoóc-môn thụ cảm. Phương pháp này đóng vai trò quan trọng trong điều trị các bệnh ung thư vùng ngực, đặc biệt estrogen là đích tác động trong rất nhiều bệnh ung thư liên quan đến hoóc-môn, nhất là ung thư ngực.

Miễn dịch trị liệu (hay miễn dịch liệu pháp) là một phương thức điều trị ung thư mới, được phát triển mạnh trong thập kỷ trước và thực sự trở thành một vũ khí triển vọng để chống lại bệnh ung thư. Ngược với các phương pháp khác, miễn dịch liệu pháp chủ yếu tập trung ngăn chặn sự di căn của bệnh và nâng cao sức đề kháng của từng cá thể. Các phương pháp miễn dịch điều trị ung thư dựa trên cơ sở sự ức chế hoặc kích thích miễn dịch thông qua rất nhiều các tác nhân như lymphokine, vắc-xin, các tế bào miễn dịch tác động được kích thích bên ngoài cơ thể, các kháng thể, các phân tử đồng kích thích miễn dịch....

Liệu pháp miễn dịch hiện ung thư phổi có thể được chia thành bốn loại chính: thuốc ức chế trạm kiểm soát (checkpoint inhibitor), các kháng thể đơn dòng (monoclonal antibodies), vắc xin điều trị, và liệu pháp tế bào nuôi.

Thuốc ức chế trạm kiểm soát - Checkpoint Inhibitors

Checkpoint PDL-1 hoặc PD-1
 
Phương pháp này hoạt động bằng cách ức chế protein gọi là PD-1 trên tế bào T, một loại tế bào miễn dịch. PD-1 khi được kích hoạt có vai trò như một phanh trên hệ thống miễn dịch và ngăn chặn tế bào ung thư giao tiếp thông qua các protein PD-1 để làm bất hoạt tế bào T, cho phép hệ thống miễn dịch tấn công các tế bào khối u.

Hệ thống miễn dịch không phải lúc nào cũng nhận ra các tế bào ung thư như là có hại. Một kháng thể đơn dòng có thể đánh dấu các tế bào ung thư bằng cách gắn vào các phần cụ thể của các tế bào ung thư không được tìm thấy trên các tế bào khỏe mạnh. Điều này làm cho nó dễ dàng hơn cho hệ thống miễn dịch để tìm và tiêu diệt các tế bào này. Các kháng thể đơn dòng mà mục tiêu protein PD-1 là một ví dụ tốt. PD-1 giữ cho hệ miễn dịch từ công nhận rằng một tế bào ung thư là, vì vậy loại thuốc ngăn chặn PD-1 cho phép hệ thống miễn dịch để xác định và loại bỏ các bệnh ung thư

Hai thuốc thông dụng là Opdivo (Nivomlumad) và Keytruda (Pemrbolizumad)

Opdivo không yêu cầu bệnh nhân có PDL-1, trong khi Keytruda đòi hỏi bệnh nhân có tỉ lệ protein PDL-1 trên 50% trong tế bào Ung Thư.

Tháng 3.2015, FDA đã phê chuẩn thuốc ức chế PDL-1 checkpoint nivolumab (Opdivo®) của công ty Bristol-Myers Squibb (BMS), để điều trị ung thư phổi tế bào vẩy dựa vào kết quả thử nghiệm giai đoạn III, trong đó bệnh nhân sử dụng nivolumab (Opdivo) sống trung bình 3,2 tháng còn hơn bệnh nhân được hóa trị tiêu chuẩn, tương đương giảm 40% nguy cơ tử vong.

Trong tháng 10 năm 2015, FDA duyệt nivolumad cho Ung thư Phổi không tế bào vẩy dựa trên kết quả thử nghiệm giai đoạn III cho thấy rằng những bệnh nhân nhận được nivolumab sống trung bình 12,2 tháng so với 9,4 tháng đối với những người nhận được hóa trị liệu chuẩn.

Ngoài ra, pembrolizumab (Keytruda®) được phê duyệt trong tháng 10 năm 2015 đối với bệnh nhân NSCLC (cả vảy và không có vảy). Trong một giai đoạn thử nghiệm lâm sàng, khoảng 22% các khối u NSCLC thử nghiệm có biểu hiện PD-L1 ở mức ít nhất là 50%.

Một số thuốc khác ít phổ biến hơn, cùng cơ chế hoạt động với Checkpoint PDL-1 và vẫn còn trong giai đoạn thử nghiệm như Atezolizumab (MPDL3280A), Durvalumab (MEDI4736), Tremelimumab hoặc Avelumab.

CTLA-4 ức chế trạm kiểm soát

Cùng cơ chế như PDL-1 và PD-1, cơ chế kiểm soát CTLA-4 được điều trị bởi Ipilimumab (Yervoy®) Mặc dù có sự phát triển lâm sàng hạn chế của thuốc CLTA4 mục tiêu trong NSCLC là đại lý duy nhất, kết hợp phương pháp tiếp cận với PD-1 và kháng thể PD-L1 đã chứng minh dữ liệu đáng khích lệ (được thảo luận dưới đây).

Phương pháp ức chế sự kết hợp trạm kiểm soát

Đối với bệnh nhân với các loại ung thư khác (ví dụ, u ác tính), thử nghiệm lâm sàng đã cho thấy tính ưu việt của phương pháp kết hợp hai chất ức chế miễn dịch trạm kiểm soát khác nhau. phương pháp miễn dịch kết hợp được bây giờ cũng được khám phá đối với bệnh nhân ung thư phổi. Hai tổ hợp riêng biệt (nivolumab + ipilimumab và durvalumab + tremelimumab) đang được thử nghiệm trong giai đoạn thử nghiệm III

Kháng thể đơn dòng

Kháng thể đơn dòng (mAbs) là các phân tử, được tạo ra trong phòng thí nghiệm, mà mục tiêu đánh dấu cụ thể kháng nguyên, được tìm thấy trên các khối u. Nhiều mAbs hiện đang được sử dụng trong điều trị ung thư, và một số xuất hiện để tạo ra một phản ứng miễn dịch. Một số mAbs được FDA phê chuẩn để điều trị ung thư phổi, bao gồm bevacizumab (Avastin®) và Ramucirumab (Cyramza®). MAbs khác hiện đang được thử nghiệm trong các thử nghiệm lâm sàng đối với bệnh nhân ung thư phổi, bao gồm:


- Bavituximab,  một mAbs mà nhắm đến một phân tử ức chế miễn dịch trong các khối u

- Patritumab , một yếu tố tăng trưởng biểu bì của con người thụ (HER3)

- Rilotumumab , một yếu tố tăng trưởng tế bào gan (HGF)

- Cetuximab  (Erbitux), một mAbs nhắm mục tiêu các thụ thể yếu tố tăng trưởng biểu bì (EGFR)

- Demcizumab , một mAbs nhắm mục tiêu Delta-như ligand 4 (DLL4), chất hoạt hóa của đường Notch tín hiệu (được biết là quan trọng trong các tế bào gốc ung thư và ung thư)

Vắc xin điều trị

Vắc-xin ung thư điều trị là liệu pháp miễn dịch được thiết kế để gợi ra một phản ứng miễn dịch chống lại các kháng nguyên được chia sẻ hoặc khối u cụ thể. Những kháng nguyên bao gồm  MAGE-3 , được tìm thấy trong 42% trường hợp ung thư phổi; NY-ESO-1 , được tìm thấy trong 30% trường hợp ung thư phổi; p53 , được đột biến trong khoảng 50% các ca ung thư phổi; survivin và MUC1.

                       TTT VN