Cần xây dựng chiến lược phát triển thị trường cho các sản phẩm chủ lực nông lâm thủy sản

(CTG) Thực hiện tái cơ cấu ngành nông nghiệp, đề án “Nâng cao giá trị gia tăng hàng nông lâm thủy sản trong chế biến và giảm tổn thất sau thu hoạch” đã được Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn phê duyệt. Tuy nhiên, việc thực hiện đề án vẫn còn nhiều khó khăn.


Thực hiện nâng cao giá trị gia tăng hàng nông lâm thủy sản và giảm tổn thất sau thu hoạch, trong thời gian qua, ngành chế biến nông lâm thủy sản đã đạt được nhiều kết quả quan trọng như: hình thành được hệ thống chế biến với khoảng 6.000 doanh nghiệp; mức tăng trưởng công nghiệp được duy trì ở mức cao (trên 10%/năm); kim ngạch xuất khẩu đạt 27,7 tỷ USD (năm 2013), tăng hơn 3 lần so với năm 2005 (8,1 tỷ USD). Cơ giới hóa nông nghiệp đạt mức tăng trưởng nhanh trong vòng 5 năm qua, đặc biệt là trong lĩnh vực canh tác và thu hoạch lúa, bước đầu tạo chuyển biến tích cực về giảm tổn thất sau thu hoạch.



Ảnh minh họa (Nguồn:hanoimoi.com.vn)

Tuy nhiên, trên thực tế, việc triển khai đề án vẫn còn tồn tại nhiều khó khăn. Theo số liệu thống kê của Cục Chế biến nông lâm thủy sản và nghề muối (Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn), xuất khẩu rau quả trong những năm qua tuy đạt mức tăng trưởng kim ngạch xuất khẩu cao (bình quân từ 28 – 30%/năm), song giao dịch mua bán vẫn chưa tuân theo một tiêu chuẩn riêng. Nhiều sản phẩm là thế mạnh của Việt Nam, nhưng “tự rớt giá” do cạnh tranh không lành mạnh, vẫn còn hiện tượng “chộp giật” ở không ít doanh nghiệp trong nước (về các sản phẩm như cá tra, tôm, lúa gạo,…). Thêm vào đó, thị trường nội địa chưa được quan tâm đúng mức dẫn đến giá cả còn phụ thuộc vào thị trường xuất khẩu, đặc biệt về cà phê, điều, hồ tiêu. Bên cạnh đó, tổn thất sau thu hoạch về số lượng và chất lượng trong ngành còn lớn: rau quả, thủy sản với tỷ lệ 25%; lúa gạo 11 – 13%,…

Song song với đó, phần lớn nông sản xuất khẩu ở dạng sơ chế, giá trị gia tăng thấp, không thương hiệu, mẫu mã bao bì chưa bảo đảm yêu cầu. Theo số liệu của Viện Chính sách và Chiến lược Phát triển Nông nghiệp Nông thôn, chỉ số cạnh tranh của các ngành hàng nông lâm, thủy sản chỉ ở mức trung bình hoặc dưới trung bình của thế giới: hồ tiêu (68,7); cao su (58,5); điều (51,9); chè (47,4); rau quả (47,1); lâm sản (44,6); cà phê (43,4); lương thực (42,9); chăn nuôi (40). Thực tế, giá trị gia tăng một số mặt hàng của ngành còn thấp. Tiêu biểu, 90% sản lượng cà phê xuất khẩu dưới dạng cà phê nhân; tỷ lệ cà phê rang xay, cà phê hòa tan chỉ đạt tỷ lệ dưới 10%; giá xuất khẩu gạo thấp hơn giá gạo cùng loại của Thái Lan từ 100 – 140 USD/tấn; chè sản lượng xuất khẩu xếp thứ 6, nhưng giá cả xếp thứ 10 thế giới (giá bán 1,45 USD/kg so với giá bình quân 3,5 USD/kg).

Nguyên nhân của tình trạng trên là do ngành vẫn chưa chú trọng đến phát triển chiều sâu, lấy chất lượng hàng hóa làm trọng. Sản xuất nông nghiệp, nguồn cung cấp nguyên liệu cho chế biến công nghiệp còn phân tán, nhỏ lẻ; việc áp dụng các tiêu chuẩn tiên tiến trong sản xuất nông nghiệp như VietGAP, 4C, Rain Forest,... vẫn còn chậm; chưa tạo được liên kết trong chuỗi giá trị sản xuất các sản phẩm, đặc biệt là liên kết giữa doanh nghiệp và nông dân. Hầu hết các doanh nghiệp chế biến nông lâm thủy sản quy mô vừa và nhỏ, nguồn lực tự có ít ỏi, không có khả năng đầu tư vào các lĩnh vực chế biến sâu đòi hỏi vốn lớn. Việc thu hút đầu tư nước ngoài và công nghệ vẫn còn nhiều bất cập.

Nhằm giải quyết những khó khăn nêu trên, ông Đoàn Xuân Hòa – Phó Cục trưởng Cục chế biến nông lâm thủy sản và nghề muối cho rằng trong thời gian tới cần tiếp tục đẩy mạnh công tác tích tụ ruộng đất, đồng thời cải tạo đồng ruộng, đầu tư cơ sở hạ tầng (giao thông, thủy lợi, điện...) nhằm tổ chức sản xuất hàng hóa lớn cung cấp cho chế biến và xuất khẩu.

Bên cạnh đó, cần tập trung hỗ trợ đầu tư đổi mới công nghệ và thiết bị cho các doanh nghiệp hoạt động hiệu quả. Áp dụng các hệ thống quản lý chất lượng tiên tiến như: HACCP, SSOP, ISO... trong chế biến, nhằm kiểm soát tốt chất lượng và an toàn thực phẩm. Thêm vào đó, cần chú trọng nhân rộng các mô hình sản xuất tiên tiến thông qua việc ưu tiên các dự án khuyến nông nâng cao chất lượng nguyên liệu chế biến.

Về giảm tổn thất sau thu hoạch, cũng theo ông Đoàn Xuân Hòa, cần thực hiện đồng bộ các giải pháp trên các mặt hàng xuất khẩu chủ lực của Việt Nam. Cụ thể, về lúa gạo, giảm tổn thất sau thu hoạch từ 11 – 13% hiện nay xuống còn 5 – 6% bằng các biện pháp cơ giới hóa thu hoạch, đầu tư máy sấy, kho chứa thóc; sử dụng máy gặt đập liên hợp tính năng kỹ thuật cao, mức độ gặt sót dưới 1,5%. Với ngành thủy sản, giảm tổn thất sau thu hoạch khai thác hải sản từ 20% hiện nay xuống 10%, thông qua việc áp dụng các tiến bộ khoa học kỹ thuật trong khai thác thủy sản; ưu tiên đầu tư trang thiết bị và hệ thống hầm lạnh bảo quản sản phẩm trên tàu đánh bắt xa bờ.

Đặc biệt, trên lĩnh vực thị trường xuất khẩu, cần có các biện pháp phân tích và dự báo về nhu cầu, xu hướng tiêu thụ sản phẩm, biến động thị trường nhằm xây dựng chiến lược phát triển thị trường cho các sản phẩm chủ lực. Đồng thời, tổ chức quảng bá sản phẩm theo hướng tăng dần tỷ trọng các mặt hàng nông lâm thủy sản chế biến ở phân khúc giá trị gia tăng cao sang các thị trường khó tính như Mỹ, EU, Nhật Bản, Hàn Quốc, Australia…/.
 
Theo ĐCSVN