Còn theo Hyde, cũng có một "châu Á an ninh" - một khu vực không bình thường, gồm những cường quốc nghi kỵ nhau, dễ bị kích động chủ nghĩa dân tộc và tư tưởng phục hồi đất đai, lãnh thổ, leo thang những tranh chấp vì những bãi đảo đá trên biển, và đang vũ trang sẵn sàng cho xung đột.
Ở châu Á ngày nay, kinh tế và an ninh khó song hành cùng nhau nữa. Trên thực tế, kinh tế và an ninh đang gần như hoàn toàn mâu thuẫn.
Một mặt, các nền kinh tế châu Á trong những năm gần đây ngày càng trở nên phụ thuộc vào Trung Quốc - và phụ thuộc lẫn nhau - hơn về thương mại, đầu tư và thị trường. Và xu hướng hội nhập kinh tế khu vực càng được thúc đẩy mạnh mẽ hơn trong 4 năm qua nhờ sự thắt lưng buộc bụng ở châu Âu và tăng trưởng kinh tế chậm lại ở Mỹ. Nhưng cũng chính những nền kinh tế này lại đang làm tổn thương lẫn nhau bởi những thứ chủ nghĩa dân tộc cực đoan, tranh đua xây dựng hải quân và trang bị khí tài cũng như những năng lực triển khai sức mạnh mới. Ngoại trừ ngoại lệ Trung Quốc, toàn bộ các quốc gia lớn của châu Á dù cho kinh tế có ngành càng hội nhập với châu Á cũng đều đang ngả mạnh sang bên kia Thái Bình Dương tìm kiếm sự hỗ trợ của Mỹ vì mục tiêu an ninh của mình.
Một cộng đồng Đông Á mới mà nhiều người châu Á đã mộng mơ chỉ có thể đạt được đến thế.
|
Điều gì dẫn đến những sự thay đổi như vậy? Thẳng thắn mà nói, châu Á an ninh và Châu Á kinh tế đang trở nên ngày càng khó dung hòa. Nhưng châu Á kinh tế đã thắng ở đâu trong cuộc đấu tranh hơn thập niên rưỡi qua sau cuộc khủng hoảng tài chính châu Á 1997-1998, và châu Á an ninh thắng thế khi nào trong những xu hướng gần đây?
Thực tế, châu Á kinh tế đã trỗi dậy mạnh mẽ đến mức thách thức cả vai trò lâu nay của Mỹ ở khu vực. Thương mại và đầu tư trong nội bộ khu vực cất cánh nhanh từ sau khi Chiến tranh lạnh kết thúc, nhưng một mạng lưới các mối liên hệ kinh tế và chính trị ngày càng chằng chịt của châu Á chỉ đặc biệt được củng cố khi cuộc khủng hoảng tài chính 1997-1998 nổ ra, ảnh hưởng mạnh mẽ nhất đến những nơi như Indonesia và Thái Lan. Khắp khu vực, giới lãnh đạo đều coi Mỹ là kẻ kiêu căng và cần xa lánh, họ tự mò mẫm giải pháp cho những thách thức kinh tế của khu vực. Mỹ, nước đã cứu trợ Mexico vào năm 1994, đã từ chối chìa tay ra với Thái Lan chỉ 3 năm sau đó. Điều này khiến người ta càng có cảm giác rằng Mỹ đang thờ ơ với Đông Nam Á. Với quốc gia châu Á, Washington dường như chỉ biết đưa ra những giải pháp quá sáo mòn. Và những năm sau đó, nhiều hiệp định thương mại ưu đãi, các quy định và tiêu chuẩn và các thể chế khu vực đã được thành lập mà không cần sự tham gia nào của Mỹ. Điều này đe dọa sẽ dần gạt Mỹ ra ngoài rìa tại châu Á.
Nhưng sau 2 năm với đầy những sự to tiếng của chủ nghĩa dân tộc trong các tranh cãi về biển đảo ở biển Hoa Đông và Biển Đông, Châu Á an ninh đã gầm thét trở lại. Chủ nghĩa dân tộc tràn lan và đối kháng nhau kiểu thế kỷ 19-20 lại trỗi dậy như một thứ bệnh lý, làm ló dạng một bóng ma xung đột mới. Một nghiên cứu mới đây của Trung tâm Nghiên cứu Chiến lược và Quốc tế tổng kết, chi tiêu quân sự ở Trung Quốc, Nhật Bản, Ấn Độ, Hàn Quốc và Đài Loan đã tăng gấp đôi sau một thập niên, đạt 224 tỷ USD vào năm 2011. Châu Á đã nỗ lực cả chục năm để phát triển một bản sắc châu Á thuần nhất và củng cố sức mạnh tập thể của mình trong hệ thống toàn cầu. Nhưng hội nhập kinh tế chưa đủ tạo nền tảng cho an ninh tập thể hay an ninh hợp tác tại Thái Bình Dương. Thay vào đó, trọng tâm kinh tế mới của thể giới dường như đang trở nên mong manh và mâu thuẫn hơn.
Mắc mớ chính trị?
Liệu Châu Á an ninh có thể áp đảo, hay thậm chí phá hủy đi, những thành quả kinh tế và kéo lùi khu vực trở lại với quá khứ suy kém của nó? Một số người cho rằng đây chỉ là một hiện tượng nhất thời - một mưu đồ nguy hiểm của các chính trị gia châu Á để tạo dựng sự ủng hộ ở thời điểm khó khăn trong nước.
Nhưng chẳng cần để ý cũng thấy tất cả những diễn biến gần đây là sản phẩm của chính trị nội bộ ở các nước. Đúng thế, Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc và một số nước khác đang tập trung cho diễn biến kinh tế hay chính trị trong nước. Đơn cử, Seoul đang trong quá trình tranh cử tổng thống (bầu cử diễn ra vào tháng 12). Đảng cầm quyền Nhật Bản đứng trước thử thách khó khăn, và hoàn toàn có thể vào năm sau sẽ thất bại trước đảng Dân chủ tự do đang nổi lên. Trung Quốc cũng sắp bước vào cuộc chuyển giao chính trị sau 10 năm, và hơn nữa, Bắc Kinh đã đạt đến giới hạn trên của mô hình tăng trưởng hiện tại, lợi nhuận giảm dần và đe dọa trở thành một điểm dễ gây tổn thương chính trị lớn của chính phủ. Các quốc gia Đông Nam Á cũng đang đối diện áp lực từ trong nước phải củng cố kinh tế, cải cách và phục hồi.
Tuy nhiên, trong khi rõ ràng thứ chủ nghĩa Sô-vanh đang ngày càng phổ biến là chiến thuật hiệu quả cho các chính trị gia đang chịu đựng áp lực của châu Á, nó cũng mang đến cái giá khá đắt cùng những thiệt hại lâu dài. Những tình cảm như vậy cũng không phải muốn khơi dậy hay dập tắt thế nào cũng được. Chủ nghĩa dân tộc kinh tế và chính trị đã bám rễ ăn sâu ở tất cả các quốc gia châu Á. Nó sẽ còn tồn tại và sinh sôi nảy nở sau khi những cuộc chuyển giao chính trị hoàn tất.
Lấy ví dụ những sự kiện vừa qua tại Trung Quốc: khi người biểu tình đổ ra đường vào mùa thu này tại hàng chục thành phố Trung Quốc, nhiều doanh nghiệp Nhật Bản đã bị tấn công, hàng ngàn chuyến bay giữa Trung Quốc-Nhật Bản bị hủy bỏ, và Honda, Toyota, Panasonic, cùng nhiều hãng nổi tiếng khác của Nhật Bản đã phải đóng cửa nhà máy. Doanh số xe hơi Nhật Bản bán tại Trung Quốc giảm gần 30% trong tháng 9. Chính phủ Trung Quốc, người muốn đóng vai trò chi phối trong các thể chế quốc tế, đã cho phép tinh thần dân tộc chủ nghĩa lấn át tham vọng toàn cầu của mình: Bắc Kinh rút lui không tham dự Hội nghị thường niên của Quỹ tiền tệ quốc tế và Ngân hàng thế giới năm 2012 đơn giản vì các sự kiện ấy được tổ chức ở Nhật Bản.
Bóng ma lịch sử đã hiện nguyên hình ở những nơi khác. Hàn Quốc và Nhật Bản cũng đã trong những mâu thuẫn mang màu sắc dân tộc chủ nghĩa trong các tuyên bố chủ quyền đối với các đảo đá thậm chí còn nhỏ bé hơn. Kết quả là 2 đồng minh Bắc Á của Mỹ, mặc dù có mối quan hệ thương mại vững chắc và lợi ích chung rất lớn trong việc đối phó với mối đe dọa Bắc Triều Tiên, cũng không thể đi đến ký kết một hiệp định chia sẻ thông tin tình báo trực tiếp để củng cố sự hợp tác nhằm chống lại mối đe dọa chung từ Bình Nhưỡng.
Căn bệnh tâm thần phân liệt của châu Á
Những sự phát triển đó tạo ra ấn tượng sai lầm với phần lớn những gì người ta viết về diễn biến gần đây ở châu Á. Ví dụ như, nhiều người cho rằng chiến lược của Nhật Bản hiện nay chủ yếu được thúc đẩy bởi thiên hướng chính sách thực dụng - đặc biệt là tham vọng đối trọng với sức mạnh đang lên của Trung Quốc. Nhưng nếu điều đó là đúng, thì thật khó hiểu khi Nhật Bản lại đang giữ một khối u lớn trong quan hệ với Hàn Quốc.
Hơn nữa, Tokyo từ lâu vẫn là ví dụ điển hình của châu Á kinh tế và là động lực đằng sau nỗ lực nhập kinh tế sâu rộng của khu vực. Nước Nhật hậu chiến tranh, một đồng minh vững chắc của Mỹ với ý thức mạnh mẽ về bản sắc xuyên Thái Bình Dương, đã ấp ủ nhiều ý tưởng về ý tưởng và ý thức hệ cho một châu Á thuần nhất, đặc biệt là trong hội nhập tiền tệ châu Á. Chính các quan chức Nhật Bản là người đã đề xuất ý tưởng thành lập một Quỹ tiền tệ châu Á vào năm 1997, góp phần phát triển Sáng kiến Chiang Mai về hoán đổi tiền tệ song phương giữa các nước ASEAN +3 (gồm 10 thành viên ASEAN, cộng với Trung Quốc, Nhật Bản, và Hàn Quốc). Cũng chính Thủ tướng Junichiro Koizumi với mối quan hệ đặc biệt sâu sắc với Mỹ, đã giúp thúc đẩy cơ chế 3 bên Trung-Nhật-Hàn và nhiều hiệp định thương mại khác trên cơ sở ASEAN+3.
Thật ngạc nhiên là ngay cả trong khi tấn kịch địa chính trị mùa thu vừa diễn ra xung quanh các đảo tranh chấp, các cuộc đàm phán giữa Bắc Kinh, Tokyo và Seoul về một hiệp định thương mại tự do ba bên vẫn diễn ra suôn sẻ. Hiện tượng tương tự cũng xuất hiện tại Đông Nam Á. Mùa hè vừa qua, do lo ngại cuộc đối đầu sẽ gia tăng, ASEAN+3, trong đó bao gồm 3 bên đối kháng (Trung Quốc, Việt Nam và Philippine) đã tuyên bố thúc đẩy Sáng kiến Chiang Mai thông qua các cam kết tăng cường gấp đôi quy mô thỏa thuận này lên 240 tỷ USD trong trường hợp xảy ra một cuộc khủng hoảng mới và thành lập một văn phòng triển khai. Tháng 11, ASEAN và 6 đối tác (Australia, Trung Quốc, Ấn Độ, Nhật Bản, New Zealand, và Hàn Quốc) đã tiến hành các cuộc đàm phán về xây dựng quan hệ Đối tác kinh tế toàn diện khu vực với giá trị thương mại có thể lên đến 17 nghìn tỷ USD và sẽ là một đối trọng với hiệp định ưu đãi khác của Washington, Hiệp định Đối tác xuyên Thái Bình Dương (TPP).
Lưỡng nan trong chiến lược
Rất khó để tránh khỏi một kịch bản tương tự như ở châu Âu vào năm 1914. Cuốn sách bán chạy nhất năm 1910 của Norman Angell, The Great Illusion, lập luận rằng chiến tranh sẽ không thể xảy ra bởi các nền kinh tế phương Tây quá phụ thuộc lẫn nhau nên nếu xung đột sẽ chẳng khác nào tự tử. Nhưng những phân tích của Thucydides về nguyên nhân con người đi đến chiến tranh - lợi ích, danh dự, và sợ hãi - vẫn có xu hướng chiếm ưu thế trong lịch sử quốc tế.
Sự cọ xát qua lại giữa Châu Á kinh tế và Châu Á an ninh do vậy đặt ra những câu hỏi quan trọng.
Trước hết, các thể chế đa phương chính ở châu Á đã tỏ ra gần như bất lực trong việc giải quyết các vấn đề nảy sinh trên thực tế. Do đó, phải chăng đã đến lúc xem xét lại những "thí nghiệm" này trong cấu trúc khu vực?
Chủ nghĩa khu vực toàn châu Á đã không thể chế ngự con quỷ dân tộc chủ nghĩa ở châu Á, và các thể chế hiện có, bao gồm cả những tổ chức có sự tham gia của Mỹ, đều gần như bó tay trong suốt cuộc khủng hoảng những năm gần đây. Mùa hè năm ngoái, sự gắn kết của ASEAN đã rạn nứt nghiêm trọng trong một hội nghị cấp cao tại Phnom Penh, khi nước chủ tịch Campuchia bất đồng với Việt Nam và Philippine về ứng xử với những hành động hung hăng của Trung Quốc. Hội nghị Cấp cao Đông Á mới cũng không thể thống nhất chương trình nghị sự trong các phiên họp thường niên. Và Diễn đàn Khu vực ASEAN (ARF), tương tự, cũng trở thành sân khấu cho những lời buộc tội và phản đối. Thực tế, ARF có lẽ là thí dụ hàm súc nhất về sự thất bại thể chế. ARF là diễn đàn an ninh hàng đầu của châu Á, tuy nhiên, toàn bộ những nguồn tiềm ẩn gây xung đột - bán đảo Triều Tiên, tuyên bố chủ quyền trên biển, quan hệ Trung Quốc-Đài Loan và Ấn Độ - Pakistan - đều gần như bị gạt ra khỏi bàn thảo luận.
Rõ ràng, sẽ tốt hơn nếu các nguyên thủ quốc gia gặp gỡ thường xuyên hơn. Nhưng sẽ là hợp lý nếu những quốc gia, bao gồm cả Mỹ, cùng tư duy theo một chương trình hoạt động khiêm tốn và thực chất hơn để hội nghị Cấp cao Đông Á tiếp theo quyết định các vấn đề ưu tiên. Sau đó, tùy vào từng vấn đề, các nhà lãnh đạo có thể yêu cầu ARF hay Diễn đàn Kinh tế khu vực châu Á Thái Bình Dương (APEC), hay các thể chế liên quan khác, thực thi những hành động thực sự. Điều này sẽ giúp các thể chế khu vực có ảnh hưởng lớn hơn và tạo ra sự kết nối giữa các tổ chức này.
Đi về đâu, Washington?
Câu hỏi thứ hai liên quan đến vai trò của Mỹ ở châu Á.
Vai trò của Mỹ với tư cách là người bảo đảm an ninh cho châu Á sẽ được củng cố ngay cả khi kinh tế khu vực trở nên thuần châu Á hơn, dù đóng góp về kinh tế giảm đi theo nghĩa tương đối. Điều này đặt ra câu hỏi liệu an ninh của Mỹ có thể được duy trì nếu không có một hồ sơ kinh tế tốt hơn tại châu Á, chưa kể sự lãnh đạo thực chất hơn từ Washington, trong việc thúc đẩy các hiệp định thương mại và đầu tư khu vực.
Hiện tại, Washington đang đứng trước hai tình thế chiến lược:
Trước hết, sự thắng thế của châu Á an ninh có lợi cho Mỹ khi đảm bảo vai trò trung tâm của nước này. Dù sao, Washington vẫn là đối trọng chiến lược quan trọng ở châu Á và điều đó càng đúng hơn trong bối cảnh Trung Quốc đang gia tăng sức mạnh hải quân và các năng lực triển khai sức mạnh khác. Những sự biến động và bất ổn như vậy chính xác là điều Mỹ đã nỗ lực muốn tránh trong suốt 2 thập niên qua.
Washington có thể cảm thấy di chuyển không thoải mái giữa các bên có tuyên bó chủ quyền lãnh thổ tranh chấp. Mỹ sẽ khó tránh được phải ủng hộ phe nào không chỉ trong các vấn đề nguyên tắc, như tự do hàng hải, mà còn trong bản thân từng tuyên bố chủ quyền cụ thể - như ở Biển Đông giữa Trung Quốc với các quốc gia Đông Nam Á khác mà Mỹ đang muốn lôi kéo (một số lại có những tranh chấp chủ quyền với nhau). Và cuối cùng tổng thống Mỹ sẽ bị kéo vào một cuộc xung đột vũ trang vì những bãi đá hoang mà Mỹ không có chủ quyền.
Tình thế khó xử thứ hai là Mỹ muốn một châu Á Thái Bình Dương ổn định và năng động, tức là Mỹ vẫn muốn châu Á kinh tế chiếm ưu thế. Nhưng về mặt kinh tế, châu Á đang ngày càng thuần châu Á, nghĩa là vai trò trung tâm của Mỹ trên thực tế có thể suy giảm nếu các mô hình thương mại và đầu tư phản ánh hơn nữa sự hội nhập kinh tế và tài chính trong chính châu Á.
Sự tham gia về mặt kinh tế của Mỹ vào châu Á đang tăng lên theo nghĩa tuyệt đối nhưng lại giảm đi theo nghĩa tương đối. Tỷ trọng kim ngạch thương mại với Mỹ trong tổng kim ngạch thương mại của Đông Á đang giảm. Thế nhưng, phản ứng của Mỹ vẫn chưa tương xứng. Cho tới nay, Washington vẫn chủ yếu tập trung vào "tái cân bằng" an ninh hơn là tái cân bằng kinh tế. Các quốc gia châu Á đang tự cung cấp hàng hóa công cộng kinh tế cho nhau nhiều hơn, trong khi vai trò của Mỹ trong lĩnh vực này đang mất dần.
Nếu xu hướng này còn kéo dài, Mỹ sẽ tiếp tục đi xuống. Do đó, Mỹ cần phải đẩy cuộc chơi kinh tế của mình hơn trong khu vực lên cao hơn. Và điều đó đòi hỏi Mỹ phải làm sống lại nền kinh tế và các nguyên tắc tài chính cơ bản của mình. Hơn hết, những điều này có thể tạo ra sự khác biệt trong việc chứng tỏ rằng Mỹ vẫn đang là một quyền lực ngự trị lâu dài tại châu Á.
Nếu lịch sử có thể dẫn lối, thì có lẽ cần một cuộc khủng hoảng hay một sự thay đổi mang tính định hình lại cuộc chơi để châu Á di chuyển toàn diện hơn sang con đường tích cực mà Jekyll đã chỉ ra. Sự tham gia nhiều hơn của Mỹ vào Châu Á kinh tế sẽ có ích. Nhưng khó có kịch bản nào sẽ mở ra những sự thay đổi to lớn hơn thông qua đó châu Á kinh tế có thể lấn át châu Á an ninh.
Nếu Mỹ vấp ngã trong nỗ lực tái cân bằng kinh tế của mình, và trong trường hợp Trung Quốc đang rơi vào bẫy thu nhập trung bình, nguy cơ tiềm ẩn đe dọa gây bất ổn chính trị sẽ rất lớn. Điều đó có thể đưa châu Á lại với nhau thông qua lợi ích chung để tránh một vòng xoáy đi xuống tại Trung Quốc. Tương tự, một sự sụp đổ bất ngờ của Triều Tiên có thể đe dọa toàn bộ châu Á, kết cục là một cuộc khủng hoảng nghiêm trọng và dẫn tới Đông Bắc Á cùng nhau quản lý bước chuyển dịch của Triều Tiên thống nhất.
Tuy nhiên, Tiến sĩ Jekyll phải đối mặt với một trận chiến rất khó khăn. Ngay cả theo các kịch bản kịch tính như vậy, phản ứng dân tộc chủ nghĩa có thể vẫn xảy ra sau đó, để rồi đưa Hyde trở lại thắng thế.