Đại học thành chốn... điền viên

(CTG) Một khi còn coi việc đánh giá của sinh viên là hình thức và còn nể nang, bỏ qua cho nhau vì mối quan hệ, thì nguy cơ trường ĐH trở thành nơi tập trung của những người ngại khó khăn, vất vả, ưa an nhàn là điều không tránh khỏi.

Tuyển dụng và đào tạo giảng viên ĐH gần đây trở thành vấn đề thu hút được sự quan tâm của công luận bởi chất lượng của đội ngũ giảng viên đang có dấu hiệu đi xuống, không bắt kịp với yêu cầu của xã hội.

Tưởng đúng, hóa ra nhiều hệ lụy

Chúng ta đều biết trường ĐH là nơi cung cấp nguồn nhân lực chất lượng cao phục vụ cho sự phát triển của đất nước. Nếu coi GDĐH là một quy trình sản xuất thì đội ngũ giảng viên đóng vai trò của máy chính, quyết định chất lượng của sản phẩm đầu ra.

Không thể có sản phẩm tốt nếu máy chính lạc hậu, rệu rã. Không thể có các tân cử nhân tốt nếu đội ngũ giảng viên không có năng lực và tâm huyết với nghề. Bài toán GDĐH không thể giải mà không xuất phát từ đội ngũ giảng viên.

Những năm gần đây theo yêu cầu của Bộ GD& ĐT, nhiều trường ĐH đã chấm dứt tuyển dụng giảng viên có trình độ cử nhân, và tấm bằng thạc sĩ trở thành điều kiện tiên quyết khi nộp hồ sơ ứng tuyển.

Thoạt nhìn, đây là một giải pháp để chấm dứt tình trạng "cử nhân dạy cử nhân", góp phần nâng cao chất lượng của đội ngũ giảng dạy ĐH. Tuy nhiên lại có rất nhiều hệ lụy phát sinh từ quy định này.

Thứ nhất, cơ chế tuyển dụng này bỏ phí rất nhiều sinh viên giỏi và có tâm nguyện trở thành giảng viên ĐH.

Như thế nào được coi là một sinh viên giỏi? Người viết cho rằng dù kết quả học tập không phải là một tiêu chí tuyệt đối chính xác, nhưng đây vẫn là một căn cứ quan trọng để đánh giá được khả năng và ý thức học tập của một sinh viên, điều hết sức cần thiết cho một người thầy tương lai.

Bên cạnh đó, để trở thành giảng viên, nhất thiết phải có lòng yêu nghề. Lòng yêu nghề sẽ khiến người giảng viên nỗ lực cố gắng tìm hiểu, nghiên cứu, xây dựng bài giảng và truyền thụ kiến thức một cách nghiêm túc, trách nhiệm và nhiệt tình chứ không phải theo cách qua loa, đối phó.

Người viết cho rằng để chọn được những hạt giống tốt, cần dung hòa được hai yếu tố này.

Đội ngũ giảng viên nên được lựa chọn từ những sinh viên giỏi, ưu tiên những sinh viên xuất sắc nhất, và đặc biệt phải có niềm đam mê công việc. Điều đáng nói là hai yếu tố này dễ nhận ra nhất khi sinh viên mới tốt nghiệp.

Những người làm công tác GD hiểu rất rõ bảng điểm ĐH có giá trị phân loại hơn nhiều so với bảng điểm cao học. Còn niềm đam mê với nghề giảng viên nếu không được nâng đỡ và khuyến khích đúng lúc, sau một thời gian sẽ rất dễ mai một.

Trong quá trình giảng dạy, người viết được nhiều sinh viên chia sẻ về nguyện vọng tha thiết được đứng trên bục giảng sau khi tốt nghiệp. Tuy nhiên, quy định hiện nay khiến các em phải tìm cách học cao học trong hoặc ngoài nước trước khi đủ điều kiện ứng tuyển.



Tấm bằng thạc sĩ trở thành điều kiện tiên quyết khi nộp hồ sơ ứng tuyển Giảng viên đại học.


Hãy hình dung những sinh viên mới ra trường phải lăn lộn săn tìm học bổng hoặc tự trang trải chi phí để học cao học ở nước ngoài; hoặc bươn chải vừa đi làm vừa học cao học. Bao nhiêu trong số những sinh viên giỏi từng có nguyện vọng trở thành giảng viên sau khi lấy được tấm bằng thạc sĩ còn muốn trở lại làm giảng viên với mức lương khởi điểm vài ba triệu đồng trong khi cơ hội tiến thân bày ra trước mắt?

Chưa kể, nhiều sinh viên giỏi từng mong muốn trở thành giảng viên nhưng do hoàn cảnh gia đình không cho phép chờ đợi và học tiếp nên buộc phải tìm công việc khác để ổn định cuộc sống. Sau một thời gian, ước mơ trở thành giảng viên sẽ không còn.

Do đó yêu cầu về bằng thạc sĩ vô hình chung đã trở thành rào cản lớn khiến cho các trường đánh mất đi những hạt giống quý giá. Thay vì nâng đỡ, tạo điều kiện bước đầu cho các giảng viên tiềm năng, cơ chế hiện nay đã đẩy nhiều ứng viên sáng giá ra xa... bục giảng.

Thứ hai, thực tế cho thấy tuyển dụng giảng viên có trình độ thạc sĩ không góp phần cải thiện chất lượng đội ngũ giảng viên. Có chăng, yêu cầu này chỉ giúp các trường sớm hoàn thiện mục tiêu trang bị bằng cấp cho giảng viên để làm đẹp đội ngũ mà thôi.

Trong bài viết đăng trên Tuần Việt Nam ngày 3/4/2013, TS Dương Xuân Thành đã chỉ ra những bất cập của việc đào tạo thạc sĩ trong nước. Người viết cũng muốn bổ sung thêm rằng, nhiều thạc sĩ qua đào tạo ở nước ngoài vẫn không hoàn thành tốt công việc của một giảng viên. Một phần là do đào tạo cao học ở nhiều nước đã trở thành dịch vụ, nghĩa là chỉ cần đi học là dễ dàng có bằng, nên trình độ của thạc sĩ được đào tạo tại nước ngoài ngày càng giảm sút.

Ngoài ra, vấn đề còn nằm ở chỗ dù đào tạo trong hay ngoài nước, chương trình cao học vẫn dàn trải và không phục vụ trực tiếp cho việc giảng dạy một môn học cụ thể nào. Để một giảng viên có thể giảng một môn học nào đó, cần có sự tập trung cao độ. Trong khoảng thời gian đầu, giảng viên tập sự chỉ dự thính, nghiên cứu sâu và chuẩn bị bài giảng cho môn học mà mình sẽ giảng dạy.

Khoảng thời gian này có ý nghĩa quan trọng hơn cả việc học một chương trình cao học, bởi lẽ nó trang bị cho các giảng viên tập sự kiến thức chuyên môn, kỹ năng sư phạm thông qua sự chỉ bảo trực tiếp của các giảng viên đi trước. Thực tế chỉ ra rằng với các sinh viên giỏi mới tốt nghiệp, việc tiếp thu ở giai đoạn này là nhanh nhạy nhất.

Trong khi đó có rất nhiều giảng viên tuy có bằng thạc sĩ nhưng đến khi giảng chuyên môn lại không đạt yêu cầu. Vì sau khi tốt nghiệp ĐH nhiều năm và học cao học theo hình thức đào tạo không tập trung, thì kiến thức và sự nhạy bén trong học thuật đã rơi rụng đi nhiều.

Không thể phủ nhận rằng để làm tốt công việc của giảng viên ĐH, cần phải tiếp tục học lên các bậc học cao hơn. Tuy nhiên, sẽ phù hợp hơn nếu như sau khi giảng viên tập sự xác định được chuyên môn mà họ sẽ theo đuổi, để từ đó tìm các khóa học phù hợp với định hướng chuyên môn. Hơn nữa, học để phục vụ cho việc giảng dạy trong một lĩnh vực nào đó, sẽ tạo cảm hứng và ý thức trách nhiệm cao hơn thay vì học để lấy một tấm bằng chỉ để đủ điều kiện ứng tuyển.

Ngoài ra, chúng ta cũng không nên hiểu máy móc rằng cử nhân dạy cử nhân là chưa tốt. Ở Việt Nam có nhiều giáo sư không có bằng thạc sĩ, tiến sĩ nhưng lại có một sự nghiệp hết sức lẫy lừng.

Nhiều người cho rằng để giảng dạy ĐH ở nước ngoài đều phải có học vị tiến sĩ cũng không thực sự chính xác. Nhiều trường ĐH trên thế giới mời các giảng viên là luật sư, chuyên gia... chỉ có bằng thạc sĩ, thậm chí cử nhân giảng dạy, điều cốt yếu là họ có trình độ chuyên môn và kiến thức thực tiễn sâu rộng.

Nguy cơ trở thành chốn... "điền viên"

Có một thực tế nghiêm trọng hơn nữa mà chúng ta cần phải nhận diện, đó là giảng đường ĐH đang có xu hướng trở thành nơi lý tưởng cho những người thích an nhàn

Nói vậy không đồng nghĩa công việc của giảng viên ĐH là nhàn nhã, mà vì công việc này cho phép giảng viên tự quyết định mức độ bận rộn của bản thân. Trừ những môn học có nhiều giờ giảng, hay những giai đoạn thiếu giảng viên, định mức giờ giảng của giảng viên ở các trường ĐH dao động từ 250-300 giờ/ năm, tương đương với khoảng 3- 4 buổi lên lớp mỗi tuần.

Đương nhiên có nhiều giảng viên phải giảng dạy gấp nhiều lần định mức này, nhưng cũng có những giảng viên chỉ thực hiện cho đủ định mức. Nghĩa là lên lớp một tuần vài buổi, còn lại có thể làm việc khác không liên quan tới chuyên môn hoặc đơn thuần là ... ở nhà. Cho nên nếu chỉ xét về thời gian thì giảng viên ĐH phải có mặt ở trường ít hơn nhiều so với giáo viên tiểu học.

Về nguyên tắc, giảng viên có thời gian không phải lên lớp để bồi dưỡng kiến thức, tìm hiểu thực tế, hướng dẫn và nghiên cứu khoa học, tư vấn... Nhưng không có cơ chế nào có thể giám sát việc sử dụng khoảng thời gian này, mà chủ yếu phụ thuộc vào sự tự giác của giảng viên. Dù nhiều trường ĐH đặt ra yêu cầu về số giờ NCKH để ràng buộc giảng viên, nhưng nhiều giảng viên sẵn sàng hi sinh thu nhập để bù giờ định mức nghiên cứu.

Có mặt tại cơ quan ít, không NCKH, hơn nữa lại giảng dạy một môn học nhiều lần đến mức thành thuộc bài, khiến công việc giảng viên dễ trở thành nghề lý tưởng cho những ai muốn có một công việc nhàn hạ, một khi không cần lo tới thu nhập vì gia đình kinh tế khá giả.

Thực tế không ít người sau một vài năm đi làm bên ngoài cảm thấy quá vất vả, đã kiếm một tấm bằng cao học để trở về làm giảng viên cho nhàn thân.

Nhiều người làm giảng viên chỉ vì cái danh và vì muốn có một công việc thảnh thơi, ổn định chứ không thực sự yêu thích và không có nỗ lực vươn lên. Cho dù đây là lựa chọn cá nhân của mỗi người, nhưng xét trong một tổng thể thì điều đó hết sức nguy hại cho toàn bộ hệ thống GDĐH, nơi mà lẽ ra phải vận động không ngừng để nghiên cứu và truyền đạt tri thức mới.

Chính vì thế mới có những giảng viên lên lớp chỉ đọc slide, thậm chí mỗi buổi lên lớp chỉ mang theo một chiếc điện thoại để điểm danh. Và hầu như tất cả các buổi đều để sinh viên tự tìm hiểu và thuyết trình. Nếu cứ để tồn tại một bộ phận giảng viên coi trường ĐH như chốn... "điền viên" như vậy thì tương lai GD ĐH sẽ đi về đâu?

Giải pháp cho vấn đề này xét cho cùng vẫn phải xuất phát từ sự đánh giá của người học. Nếu như ý kiến của sinh viên được tôn trọng và có những biện pháp quyết liệt được thực hiện, dựa trên ý kiến của sinh viên, thì những người thầy không có năng lực, hoặc không làm việc nghiêm túc sẽ lộ diện, bất kể được che đậy bởi những bằng cấp nào.

Do đó, một khi còn coi việc đánh giá của sinh viên là hình thức và còn nể nang, bỏ qua cho nhau vì mối quan hệ, thì nguy cơ trường ĐH trở thành nơi tập trung của những người ngại khó khăn, vất vả, ưa an nhàn là điều không tránh khỏi.

Theo Vietnamnet