Nặng về tiêu chí và chỉ tiêu
Theo dự thảo, DNVVN có quy mô sử dụng dưới 200 lao động làm việc toàn bộ thời gian và có doanh thu năm không quá 20 tỷ đồng (bình quân 2 năm liên tiếp tính đến thời điểm áp dụng và áp dụng cho mỗi hai năm liên tiếp sau đó) được áp dụng thuế suất 20%.
Theo Nghị định 56/2009/NĐ-CP, DNVVN được xác đinh theo tiêu chí vốn, lao động tuỳ theo lĩnh vực, ngành nghề kinh doanh. Ví dụ: Đối với lĩnh vực nông, lâm nghiệp và thủy sản; công nghiệp và xây dựng: vốn dưới 100 tỷ đồng, lao động dưới 300 người được coi là DNVVN...
Như vậy, nếu áp dụng quy định của dự thảo sẽ phát sinh một số đối tượng không được hưởng mức thuế suất 20% (DN có trên 200 lao động).
Về mặt luật, Nghị định 56 phân loại DNVVN chỉ dựa vào một trong hai tiêu chí hoặc doanh thu hoặc lao động để xác định, trong khi đó tinh thần dự thảo nêu quan điểm áp dụng cho nhóm DNVVN nhưng lại quy định kết hợp đồng thời cả hai tiêu chí. Quy định như vậy là vừa “đóng” vừa “mở”, thực chất là áp đặt các tiêu chí nhằm hạn chế đối tượng hưởng ưu đãi, thiếu các tính toán phương án áp dụng dàn trải cho mọi đối tượng DNVVN.
Kinh nghiệm một số nước cho thấy mức thuế suất áp dụng cho DNVVN không nhất thiết duy trì ở mức cố định. Hàn Quốc là một ví dụ. Chính sách ưu đãi về thuế suất theo tiêu chí thu nhập của DN, theo đó, DN có thu nhập chịu thuế đến 200 triệu won thì mức thuế suất là 10%; DN có thu nhập chịu thuế từ 200 triệu won đến 20 tỷ won thì mức thuế suất là 20%…. Hay Thái Lan, DN có thu nhập ròng chịu thuế đến 150.000 baht được miễn thuế, DN có thu nhập ròng chịu thuế từ 150.001 đến 1.000.000 baht được hưởng thuế suất 15% (thuế suất phổ thông là 23%).
Theo thống kê, Việt Nam có khoảng 87,8% DNVVN nhưng mức đóng góp về thuế chỉ chiếm 39% tổng thu ngân sách. Với bối cảnh kinh tế phần lớn là DNVVN nên chính sách đối với DNVVN rất cần sự nhất quán để tạo động lực chung, trong đó chống thất thu chỉ là giải pháp cục bộ, không gắn kết các định hướng phát triển bền vững, tạo cơ hội cho DN khó khăn vực dậy sản xuất, kinh doanh, góp phần làm bình ổn chính sách vĩ mô, điều tiết nguồn thu ngân sách nhà nước.
Từ thực tế trên, nhiều ý kiến cho rằng trong việc xây dựng các tiêu chí ưu đãi, điều quan trọng là cần có đánh giá “sát sườn” tình hình hoạt động của các DN thông qua các chỉ tiêu cơ bản về doanh thu và tài sản. Ví dụ: DN có 201 lao động, doanh thu dưới mức quy định, đối chiếu các tiêu chí của Dự thảo thì DN không được hưởng thuế suất 20%. Sau khi thực hiện hàng loạt các biện pháp cải cách, số lao động đã giảm dưới 200, doanh số tuy tăng vượt "ngưỡng” (20 tỷ) nhưng thực tế DN vẫn rơi vào tình trạng khó khăn do đúng thời điểm kinh tế suy thoái, tỷ suất giữa doanh thu và chi phí qua nhiều năm vẫn chưa ổn định, dẫn đến thua lỗ kéo dài, nguy cơ phá sản là rất cao. Hậu quả là mặc dù hoạt động rất vất vả nhưng DN vẫn không được hưởng ưu đãi. Rõ ràng, nếu dựa cả hai tiêu chí thì được cái này sẽ mất cái kia. DN dù ít hay nhiều lao động nhưng đang khó khăn thực sự lại không được xem xét hỗ trợ một cách thỏa đáng là không hợp lý.
Một vấn đề khác là thuế suất "riêng” áp dụng cho DNVVN theo Dự thảo thực chất là một hình thức ưu đãi thuế, do vậy không nên đưa quy định này vào trong điều khoản chung về thuế suất.
Có thể tách nhập quy định trên vào nhóm quy định ưu đãi tại khoản 6, Điều 1 Dự thảo để dễ quản lý. Lý do: (1). Quy định nhập chung sẽ không đảm bảo tính vĩ mô của vấn đề thuế suất, hơn nữa tiêu chuẩn DN được hưởng ưu đãi luôn thay đổi tùy từng giai đoạn, điều kiện kinh tế tại mỗi thời điểm. Do vậy nhà nước sẽ phải sửa đổi luật liên tục, làm mất đi tính ổn định của văn bản, cũng như chính sách; (2). Hiểu đúng ý nghĩa hỗ trợ thuế suất sẽ có tác dụng động viên khích lệ DN tự giải quyết khó khăn trước mắt, đồng thời tránh được tâm lý ỷ lại nhiều vào ưu đãi của nhà nước trong thời gian dài, dẫn đến thiếu ý thức đổi mới, xây dựng các phương thức đầu tư, kinh doanh, cùng với các biện pháp quản trị rủi ro hiệu quả.
Ngoài ra khó khăn có thể là khó khăn chung (như suy thoái kinh tế), trường hợp thiên vị ưu tiên cho một số nhóm đối tượng DN về lâu dài có thể làm mất đi tính ổn định, cân bằng chính sách tài khóa, không chia sẻ, không khích lệ các DN còn lại đầu tư, gia tăng nguy cơ đổ vỡ do không có biện pháp hỗ trợ kịp thời của Chính phủ.
Một số kiến nghị
Để đảm bảo tính thống nhất, khuyến khích tích lũy, tái đầu tư mở rộng sản xuất, quy định thuế suất 20% nên áp dụng chung cho mọi đối tượng DNVVN, lấy mức thu nhập DN làm căn cứ đánh giá. Giá trị thu nhập không nhất thiết ghi cụ thể trong văn bản luật, sẽ được thực hiện bằng các nghị quyết chuyên đề của Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội, thậm chí là giao cho Chính phủ thực hiện nhằm tạo sự linh hoạt, tránh tình trạng sửa đổi luật nhiều liên quan đến các quy định, điều kiện phân loại.
Cần xem lại tính hợp lý, đồng bộ một số quy định, giải pháp.
Đơn cử: Thuế suất (cho mọi DN) đầu tư mới vào khu vực kinh tế khó khăn theo dự thảo là 20% (khoản 6, Điều 1 Dự thảo), ngang bằng với thuế suất áp dụng cho DNVVN. Trường hợp DNVVN đầu vào khu vực kinh tế khó khăn vẫn áp dụng mức 20% nhưng không rõ là áp dụng theo điều kiện nào. Nếu theo quy định của khoản 6, Điều 1 thì DN được hưởng mức thuế suất này trong vòng 10 năm. Mới nhìn vào là có lợi nhưng thực chất là không ưu đãi hơn so với các DN lớn đầu tư vào cùng địa bàn. Rõ ràng điều này sẽ không khuyến khích hoạt động đầu tư và cạnh tranh của các DN, cũng như không phát huy lợi thế DNVVN theo tinh thần của Dự thảo.
Một quy định mới là quy định về „vốn mỏng”. Theo đó đối với các khoản vay vượt quá 4 lần vốn chủ sở hữu, (riêng các tổ chức tín dụng, ngân hàng tỷ lệ này không quá 10 lần vốn chủ sở hữu), chi phí lãi vay sẽ không được phép khấu trừ vào doanh thu tính thu nhập chịu thuế. Quy định vốn mỏng nhằm hạn chế DN ít vốn hoạt động chủ yếu dựa vào vốn vay, tăng chi phí khấu trừ nhằm mục đích trốn thuế.
Một điều nghịch lý là nếu dựa vào khoản vay thì các DN FDI sẽ có nhiều lợi thế hơn. Quy định hiện nay cho phép DN thực hiện vay nước ngoài nhưng thực tế nhà nước không kiểm soát được mức lãi suất thỏa thuận (không có quy định khống chế). Nếu bổ sung (nâng) tỷ lệ vốn mỏng thì DN/tổ chức cho vay (là bên có quan hệ liên kết với DN đi vay) có thể “thỏa thuận” tăng mức lãi suất (thực chất là nhằm tăng chi phí lãi vay), tạo điều kiện cho DN liên kết thực hiện hành vi chuyển giá như một số trường hợp DN FDI mà các cơ quan báo chí đã phản ánh trong thời gian vừa qua (nghi ngờ chuyển giá). Hậu quả là trong khi DN trong nước (trong đó có DNVVN) “hì hục” làm ăn để đóng thuế thì một số DN vốn đầu tư nước ngoài lại được hưởng lợi thế do sự bất cập, thiếu đồng bộ, minh bạch của hệ thống luật pháp.
Do vậy cần có những phân tích, đánh giá kỹ hơn các tác động của quy định “vốn mỏng”, đặc biệt là quy định lộ trình áp dụng các tỷ lệ tương ứng theo hướng giảm dần phù hợp với điều kiện kinh tế từng thời điểm như một số nước đã thực hiện.
Theo DNSG |