Ông Đỗ Hoàng Anh Tuấn, Thứ trưởng Bộ Tài chính đã trao đổi với báo chí về việc xử lý tài chính tại các tập đoàn, tổng công ty trong quá trình tái cơ cấu.
Vốn nhà nước lo, lợi tức DN hưởng
Thưa ông, hiện nay còn tồn tại sự bất bình đẳng trong các hoạt động của các DNNN và DN tư nhân. Trong quá trình tái cơ cấu lần này thì vấn đề này sẽ được xem xét như thế nào?
- Chúng ta phải xác định điều gì chưa bình đẳng giữa DNNN và DN ngoài nhà nước và các thành phần kinh tế khác. Làm sao để DNNN phải thực hiện sự bình đẳng trong môi trường pháp luật, cạnh tranh. Theo tôi, có mấy vấn đề phải lưu ý ở đây.
Thứ nhất: vốn chủ sở hữu trong DNNN và các tập đoàn khá lớn, hiện là 653.000 tỷ đồng. Nếu ở khu vực ngoài nhà nước, khi DN sử dụng nguồn vốn của chủ đầu tư thì DN sẽ bị sức ép của lãi suất đầu tư. Nhưng hiện nay, toàn bộ lợi tức sau thuế của 653.000 tỷ này theo cơ chế của chúng ta là để lại cho DN để tái đầu tư. Có những năm, lợi tức Nhà nước để lại gần 100.000 tỷ đồng.
Rõ ràng khi sử dụng vốn nhà nước, chủ DNNN không bị sức ép về chi phí vốn, đồng thời hàng năm anh được bổ sung một nguồn tài chính không có lãi suất.
Rõ ràng ở đây đã thể hiện sự chưa bình đẳng và không tạo ra một áp lực để buộc DNNN phải vươn lên cho hiệu quả. Chúng tôi cho rằng đây là vấn đề cần phải nghiên cứu.
Thứ hai là trong cơ chế tài chính hiện nay, DNNN vẫn còn dựa vào đó để hoạt động sản xuất kinh doanh và không tính được hiệu quả thực tế. Ví dụ như vấn đề khấu hao, nhiều DN gặp khó thì giãn khấu hao ra, rõ ràng là không quản lý thực.
Rồi chênh lệch tỷ giá, về nguyên tắc của thị trường phải tính đủ thì lại tính không đầy đủ trong kết quả hạch toán kinh doanh. Vấn đề thu nhập của người lao động, nếu ở DN nói chung khác sẽ bao gồm lương, thưởng, phúc lợi thì đối với DNNN thì tiền thưởng phúc lợi lại được tính sau thuế. Điều đó có nghĩa, khi tính sau thuế thì khoản tiền này sẽ thuộc về chủ sở hữu. Như vậy chủ sở hữu là nhà nước lại không yêu cầu DNNN phải hạch toán đầy đủ mà lại trừ vào phần đáng phải nộp ngân sách nhà nước. Tính ra khoản này cũng một vài chục ngàn tỷ đồng mỗi năm.
|
Thưa ông, trong thời gian tới, giải quyết sự bất bình đẳng đó đã có đường hướng cụ thể ra sao?
- Chúng tôi cho rằng cần phải nghiên cứu sự bình đẳng, để có cơ chế chính sách cho phù hợp, tạo môi trường kinh doanh cạnh tranh, buộc các DNNN phải cạnh tranh theo quy định của pháp luật và bình đẳng với các doanh nghiệp ngoài nhà nước.
Trong việc xây dựng các cơ chế chính sách đối với tài chính DNNN, chúng tôi đã đặt các vấn đề đó ra để nghiên cứu, kiến nghị với Chính phủ.
Chưa hẳn đã thất thoát 30.000 tỷ đồng
Thưa ông, liên quan đến việc vay vốn của các Tập đoàn, Tổng công ty nhà nước, nếu số vay vượt quá số vốn chủ sở hữu thì việc giải quyết rủi ro sẽ như thế nào ?
- Hiện nay, theo số liệu thống kê và báo cáo của các Tập đoàn, Tổng công ty thì vốn chủ sở hữu là 653.000 tỷ đồng thì vốn vay chỉ bằng 1,67 lần thôi. So với tỷ lệ theo thông lệ quốc tế cũng như cho nền kinh tế thì không phải là số vay quá cao.
Nhưng điều đáng quan tâm ở đây là có 7 tập đoàn, tổng công ty có tỷ lệ này ở mức từ 5-10 lần. Do vậy, để quản trị vấn đề rủi ro phòng tránh hậu quả thì cần phải tập trung để giải quyết đối với 7 tập đoàn, tổng công ty này.
Kiểm toán nhà nước, Thanh tra chính phủ đã đưa ra những con số thất thoát tại các Tập đoàn và Tổng công ty nhà nước lên tới 30.000 tỷ đồng. Trong quá trình tái cơ cấu DNNN sắp tới, các khoản thất thoát này sẽ được giải quyết thế nào?
- Việc xử lý các kết luận của Thanh tra Chính phủ và Kiểm toán nhà nước cũng là một khâu quan trọng trong quá trình thực hiện tái cấu trúc doanh nghiệp nhà nước (DNNN), trọng tâm là các Tập đoàn, Tổng công ty.
Tuy nhiên, chúng ta cũng phải thống nhất các nhìn nhận, đánh giá về tình trạng lãng phí hiện nay tại khu vực này. Nếu không làm rõ bản chất của nó thì sẽ dẫn đến những hiểu nhầm là 30.000- 40.000 ngàn tỷ hiện đang được coi thất thoát, mất mát đó.
Ví dụ, Tập đoàn Dầu khí quốc gia Việt Nam (PVN) có kết luận tồn tại trên 18.000 tỷ đồng nhưng 18.000 tỷ ấy là bao gồm những nội dung cần xử lý về mặt tài chính, cụ thể là những việc phải hoàn thành, bổ sung các thủ tục hành chính do chưa làm đúng quy trình, trong đó, có phần thất thoát về thuế.
Đơn cử như trong 18.000 tỷ đồng đó thì 15.600 tỷ là đầu tư của Tập đoàn cho các dự án dầu khí khai thác ở ngoài nước, đây là nhiệm vụ quan trọng được thực hiện theo pháp luật của hai quốc gia, được sự đồng ý phê duyệt của cơ quan thẩm quyền.
Cái chưa đúng ở đây là theo quy định về sử dụng nguồn vốn đầu tư này phải cho các công trình nằm trong danh mục các công trình trọng điểm của ngành dầu khí. Tập đoàn dầu khí làm hết các việc nhưng thiếu thủ tục này thì sau này, khi thực hiện kiểm toán, đã khắc phục khuyết điểm này.
Như vậy trong tổng số hơn 18.000 tỷ ở PVN được cho là sai phạm, thất thoát thì số vi phạm về thuế có khoảng 20 tỷ đồng. Chúng tôi đã chấp hành kết luận kiểm toán và phối hợp thực hiện để thu về cho ngân sách nhà nước.
DNNN vẫn phải là công cụ điều tiết vĩ mô
Trong quá trình tái cấu trúc, vai trò của tập đoàn, tổng công ty nhà nước trong nền kinh tế sẽ được xác định như thế nào?
Một số chuyên gia cho rằng Tập đoàn, tổng công ty nhà nước sẽ không làm nhiệm vụ là công cụ của nhà nước để điều hành kinh tế vĩ mô. Quan điểm này theo chúng tôi cần phải xem xét nghiên cứu kỹ lưỡng, phải trao đổi thấu đáo.
Bởi vì bất cứ quốc gia nào cũng phải sử dụng các công cụ, trong đó có công cụ doanh nghiệp, tức là sử dụng nguồn vốn của mình để điều tiết kinh tế vĩ mô. Không nhà nước nào bỏ chức năng đó.
Vậy trong điều kiện thực tế của chúng ta hiện nay thì nguồn vốn trong khu vực kinh doanh, cụ thể là tại DNNN vẫn chiếm tỷ trọng cao nhất.
Theo quá trình tái cấu trúc, nguồn vốn này giảm dần. Tuy nhiên, giảm dần không có nghĩa là giảm xuống nhanh đột ngột được. Trong trung hạn vẫn còn nguồn vốn lớn trong xã hội mà nhà nước lại bỏ vai trò sử dụng nó như một công cụ để điều tiết vĩ mô thì chúng tôi cho rằng không khoa học, không hợp lý.
Chúng tôi vẫn khẳng định với nguồn lực nhà nước to lớn trong DNNN như vậy thì chúng ta vẫn phải coi đó là công cụ của nhà nước để điều tiết kinh tế vĩ mô. Cái quan trọng là chúng ta sử dụng nó với phương pháp nào, với cách thức nào, với quan điểm nào, với nguyên tắc nào?
Nguyên tắc là bình đẳng, thị trường, sẽ có sự quản lý nhà nước để vừa tạo điều kiện cho doanh nghiệp phát triển, vừa vẫn phải đảm bảo được vai trò của nhà nước thông qua công cụ phần vốn của mình tại nhà nước để tác động đến kinh tế, làm sao đảm bảo sự phát triển toàn diện và hiệu quả.