Trong một đánh giá về thị trường bán lẻ, Bộ Công thương nhận định, sau 5 năm gia nhập Tổ chức thương mại thế giới (WTO), ngành bán lẻ Việt Nam phát triển với tốc độ khá nhanh, bước đầu tạo được vị thế trên thị trường, đáp ứng nhu cầu của nhân dân. Số lượng siêu thị thành lập mới trong thời gian này tăng hơn 20%. Số trung tâm thương mại thành lập mới tăng hơn 72%. Ngoài ra, còn có hàng nghìn cửa hàng chuyên doanh và cửa hàng tiện lợi (theo mô hình hiện đại của các nước tiên tiến) phân bố rộng khắp cả nước. Ước tính chung, thị phần các loại hình bán lẻ hiện đại chiếm khoảng 20% tổng mức bán lẻ, gấp đôi thời điểm trước khi gia nhập.
|
Do sức hấp dẫn của thị trường bán lẻ Việt Nam còn nhiều nên các nhà bán lẻ nước ngoài đang có mặt tại đây vẫn tiếp tục mở rộng hệ thống kinh doanh. MetroCash & Carry (Đức), Lotte (Hàn Quốc)... không ngừng phát triển, trong khi nhiều nhà bán lẻ khác đã tỏ thái độ quan tâm đầu tư như Tập đoàn bán lẻ quốc tế Takashimaya, Index Living Mall... Gần đây nhất, nhà bán lẻ NUTC FairPrice (Singapore) đã liên kết với Saigon Co.op cho ra đời hai chuỗi loại hình thương mại hiện đại là: Đại siêu thị với thương hiệu Co.opXtra, Co.opXtra plus. Một số tập đoàn khác cũng có ý định mở rộng chuỗi siêu thị ra các tỉnh, thành phố khác.
Trong nước, thông qua đầu tư trực tiếp, góp vốn liên doanh, nhượng quyền thương mại… các doanh nghiệp Việt Nam đã mở rộng mạng lưới bán hàng, khai thác và kết hợp nguồn lực của nhiều doanh nghiệp nhỏ trở thành hệ thống có quy mô lớn và trình độ tổ chức cao đang ngày một phát triển. Qua đó, một số nhà bán lẻ đã tổ chức được mô hình bán hàng theo chuỗi với số lượng cửa hàng tăng lên hàng năm, như Liên hiệp Hợp tác xã Thương mại TP. Hồ Chí Minh (với gần 60 siêu thị mang thương hiệu “Co.opMart” và 30 cửa hàng Co.opFood; Tổng công ty Thương mại Hà Nội (với 3 trung tâm thương mại, hơn 40 siêu thị, cửa hàng tiện ích HaproMart, 36 cửa hàng, điểm kinh doanh thực phẩm an toàn HaproFood và khoảng 200 cửa hàng chuyên doanh quy mô nhỏ); Công ty kinh doanh hàng thời trang Việt Nam của Tập đoàn dệt may Việt Nam với chuỗi 62 cơ sở (gồm trung tâm thương mại, siêu thị tổng hợp, gian hàng, cửa hàng chuyên doanh hàng thời trang mang thương hiệu VinatexMart); Công ty cổ phần XNK Intimex với 14 siêu thị và 01 trung tâm thương mại mang thương hiệu Intimex (có 8 siêu thị Intimex thành lập sau khi Việt Nam gia nhập WTO); Công ty cổ phần Nhất Nam với 13 siêu thị mang thương hiệu Fivimart (có 9 siêu thị Fivimart thành lập sau khi Việt Nam gia nhập WTO; Công ty An Phong với 6 cơ sở (3 siêu thị và 3 trung tâm thương mại) mang thương hiệu Maximart (có 02 trung tâm thương mại Maximart thành lập sau khi Việt Nam gia nhập WTO)…
![]() |
Tuy nhiên, thực tế cho thấy, lượng khách hàng đến các trung tâm thương mại có vốn nước ngoài rất đông do các nhà bán buôn bán lẻ này chuyên nghiệp hơn trong phục vụ, trưng bày và có số lượng mặt hàng lớn. Trong khi đó, các nhà bán lẻ nội yếu về chi phí đầu tư, yếu về năng lực quản trị. Để thích nghi với tình hình, Tổng Thư ký Hiệp hội bán lẻ Việt Nam Đinh Thị Mỹ Loan cho rằng, các doanh nghiệp bán lẻ trong nước phải tìm cách vươn lên mạnh mẽ hơn nữa. Đây cũng là thời điểm thích hợp để doanh nghiệp bán lẻ nội tự đánh giá lại tiềm lực, cải tổ những thiếu sót, áp dụng những phương thức tích cực.
Nhấn mạnh tính nhất quán trong việc xác định hệ thống phân phối và bán lẻ Việt Nam là rất quan trọng và có tác động vô cùng to lớn đến phát triển kinh tế, phát triển sản xuất và ảnh hưởng đến quyền lợi của hàng chục triệu người tiêu dùng Việt Nam, Bộ trưởng Bộ Công thương Vũ Huy Hoàng đề nghị tiếp tục cụ thể hóa Nghị quyết TW4 khóa XI (Nghị quyết số 13-NQ/TW ngày 16-1-2012) về xây dựng hệ thống kết cấu hạ tầng đồng bộ nhằm đưa nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại vào năm 2020 (trong đó có định hướng phát triển hạ tầng thương mại); gắn phát triển hệ thống phân phối và bán lẻ, nhất là và trước hết ở những mặt hàng quan trọng, thiết yếu với công tác đảm bảo cung - cầu, bình ổn thị trường - giá cả…
![]() |
Để thị trường phát triển bền vững, Bộ trưởng Hoàng yêu cầu nghiên cứu, đề xuất sự hỗ trợ từ Chính phủ mà không vi phạm các cam kết gia nhập WTO như hỗ trợ pháp lý, đào tạo nâng cao năng lực quản lý và kỹ năng bán hàng; hỗ trợ xây dựng thương hiệu; hỗ trợ ứng dụng các phương pháp quản lý hiện đại; hỗ trợ thông tin thị trường, nguồn hàng; hỗ trợ tư vấn pháp lý trong việc liên kết nhà sản xuất - nhà phân phối...
Cũng theo Bộ trưởng Hoàng, cần có chính sách khuyến khích các doanh nghiệp phân phối vốn trong nước liên doanh với các tập đoàn bán lẻ hàng đầu thế giới lập cơ sở bán lẻ ở Việt Nam để qua đó học hỏi kinh nghiệm, tiếp thu trình độ quản lý và công nghệ tiên tiến, đồng thời hoàn thiện chính sách, luật pháp về mở cửa thị trường dịch vụ phân phối.
Theo cam kết gia nhập WTO, từ ngày 11-1-2010 đến trước ngày 11-1-2015, Việt Nam cho phép thành lập liên doanh để cung cấp dịch vụ liên quan đến sản xuất, trong đó nhà đầu tư nước ngoài được sở hữu đến 50% vốn điều lệ của liên doanh. Sau ngày 11-1-2015, Việt Nam cho phép thành lập 100% vốn nước ngoài. Như vậy, chỉ còn hơn một năm nữa là lộ trình mở cửa cho các doanh nghiệp sản xuất, phân phối của nước ngoài vào Việt Nam theo cam kết WTO sẽ hoàn thiện. Điều này đặt các nhà bán lẻ Việt Nam trước nhiều thách thức và một cuộc cạnh tranh khốc liệt đã được dự báo trước.