Thủ tướng Phạm Minh Chính chụp ảnh với sinh viên ĐH Quốc gia TP.HCM trong Lễ khai khóa năm 2023. NHẬT THỊNH
Từ xu hướng phát triển không bền vững về con người của thế giới vào các năm 1970 - 2020 - 2034 - 2064 - 2100, từ phân tích bước đầu nguyên nhân của hiện tượng TTSS (tổng tỷ suất sinh) thấp dưới TTSS thay thế 100 năm và đối diện nguy cơ tự tiêu vong sau 300 năm của Nhật Bản [3], từ triển vọng Nghị quyết 21-NQ/TW năm 2017 và Chiến lược phát triển dân số Việt Nam đến 2030, từ dự báo thô dân số Việt Nam giai đoạn 2020 - 3000 và nguy cơ tự tiêu vong sau 500 năm, từ truyền thống văn hóa coi trọng gia đình, hạnh phúc gia đình của người Việt Nam chúng ta cần xây dựng Chiến lược phát triển con người Việt Nam bền vững giai đoạn 2025 - 2045 với 5 quan điểm cơ bản sau đây:
1. Phát triển bền vững con người Việt Nam là nền tảng quan trọng hàng đầu để phát triển bền vững đất nước.
2. Để phương thức tăng trưởng kinh tế của đất nước không dẫn tới suy thoái lao động và dân số cần có sự thống nhất cao giữa chính phủ, các doanh nghiệp và toàn xã hội về vai trò không thể thay thế của gia đình và các điều kiện cần thiết để gia đình hạnh phúc, đảm bảo vững chắc TTSS thay thế.
Tái tạo con người qua phát triển gia đình hạnh phúc và phát triển kinh tế là quan hệ 2 chiều, có sự chi phối của chính sách phát triển quốc gia, các địa phương và hoạt động của doanh nghiệp. Có con người, có lao động đủ số lượng với chất lượng không ngừng nâng cao thì mới có điều kiện phát triển kinh tế bền vững trong cơ chế cạnh tranh kinh tế toàn cầu. Phát triển kinh tế sẽ tạo điều kiện để xây dựng gia đình hạnh phúc, công dân hạnh phúc.
Thực tế ở nhiều nước như Nhật Bản, Hàn Quốc, Việt Nam (cụ thể ở TP.HCM) đã chỉ rõ: không phải năng suất lao động cao, không phải GDP/người cao thì đương nhiên gia đình có điều kiện đủ để là gia đình hạnh phúc, để sinh đủ 2 con là hạnh phúc. Thực tế toàn cầu 50 năm qua, GDP/người càng tăng thì nguyện vọng người lao động kết hôn và sinh con càng giảm, đi tới xu thế: sau 2034, cả thế giới không đảm bảo TTSS thay thế, sau 2055 suy thoái lao động toàn cầu, sau 2064 suy thoái dân số toàn cầu, cả thế giới là hố đen dân số.
Thực tế của Nhật Bản đã chỉ rõ: thời gian làm việc quá dài, điều kiện phát triển nghề nghiệp của phụ nữ bị hạn chế khi sinh con và nuôi dạy con, việc người vợ có thời gian làm việc nhà, nuôi dạy con gấp 9 lần người chồng, việc chi phí học hành của con và chi phí tiền nhà cao, thiếu chỗ học cho trẻ mầm non… là những yếu tố trực tiếp cản trở mong muốn lập gia đình và có con.
Cần có sự thống nhất cao về vai trò không thể thay thế của gia đình và các điều kiện cần thiết để gia đình hạnh phúc. THANH NAM
Bài học từ thực tế Nhật Bản, Hàn Quốc, Việt Nam là: cần đảm bảo khi chính phủ thiết kế mục tiêu và chính sách phát triển kinh tế, khi các doanh nghiệp quy định chế độ tiền lương và điều kiện lao động, khi quy hoạch đô thị về giao thông, giáo dục, y tế, nhà ở, dịch vụ thì tổng hòa tác dụng của các chính sách, mục tiêu phát triển của chính phủ, chính quyền địa phương, các quy định của doanh nghiệp, tổ chức và điều kiện sống thực tế của người lao động ở lứa tuổi 22 - 35 không tạo áp lực buộc họ phải lựa chọn và quyết định: muốn duy trì việc làm có thu nhập cần thiết, đủ sống thì phải từ bỏ nguyện vọng có gia đình, hoặc có gia đình thì phải từ bỏ nguyện vọng có 2 con hoặc 1 con. Chỉ khi đó, nguyện vọng có gia đình, có 2 con mới có thể trở thành hiện thực với đại đa số người lao động, TTSS được duy trì ở mức TTSS thay thế, đất nước mới phát triển bền vững về con người.
3. Các chính sách của chính phủ để phòng ngừa suy thoái lao động, suy thoái dân số phải được ban hành từ sớm, từ xa và đủ mạnh.
Phân tích diễn biến TTSS và dân số của Nhật Bản hơn 50 năm qua (1970 - 2023), các chính sách, chương trình hỗ trợ gia đình và sinh con của chính phủ hơn 30 năm (1990 - 2023), có thể rút ra 2 bài học [3]:
- Bài học 1: Do việc thiếu lao động chỉ xuất hiện sau khoảng 20 năm TTSS đã thấp dưới TTSS thay thế, nên nhiều năm sau khi TTSS đã giảm dưới TTSS thay thế, chính phủ, chính quyền địa phương và các doanh nghiệp, tổ chức không có các giải pháp kịp thời, đủ mạnh để đưa TTSS trở lại TTSS thay thế.
Vì vậy mà các chương trình của chính phủ hỗ trợ lập gia đình và sinh con ban hành có phần chậm, quy mô tài chính nhỏ và các doanh nghiệp chưa vào cuộc đủ mạnh để tạo điều kiện cho người lao động, nhất là lao động nữ có thể vừa có gia đình, có con, vừa có cơ hội thăng tiến nghề nghiệp.
- Bài học 2: Khi các chính sách hỗ trợ gia đình và trẻ em để khuyến khích kết hôn, sinh 2 con trở lên, làm tăng TTSS của chính phủ tác dụng thực tế thấp, không tăng được TTSS cơ bản, lâu dài đã kéo dài hơn 20 năm (1990 - 2015) thì một bộ phận người dân sẽ thay đổi căn bản quan niệm về gia đình và sinh con "kết hôn và có con là bất lợi cho bản thân, không cần thiết".