Khai mạc phiên họp thứ 41 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội

(CTG) Sáng 29/6, dưới sự chủ trì của Tổng Bí thư, Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Phú Trọng, Ủy ban Thường vụ Quốc hội đã khai mạc phiên họp thứ 41, cho ý kiến vào quyết toán ngân sách nhà nước năm 2009 và dự thảo Pháp lệnh quản lý, sử dụng vũ khí, vật liệu nổ và công cụ hỗ trợ.




Tổng Bí thư, Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Phú Trọng phát biểu khai mạc phiên họp. Ảnh: TTXVN 


Cùng dự có các Phó Chủ tịch Quốc hội Tòng Thị Phóng, Nguyễn Đức Kiên, Uông Chu Lưu, Huỳnh Ngọc Sơn; Phó Chủ tịch nước Nguyễn Thị Doan cùng đại diện các Bộ, ban, ngành Trung ương.

Tại Phiên họp, Ủy ban Thường vụ Quốc hội đã nghe Bộ trưởng Bộ Tài chính Vũ Văn Ninh trình bày Báo cáo quyết toán ngân sách nhà nước năm 2009.

Năm 2009, GDP đạt 5,32%; Quyết toán thu ngân sách nhà nước năm 2009 đạt 454.786 tỷ đồng, vượt 16,6% so với dự toán. Quyết toán chi ngân sách nhà nước đạt 561.273 tỷ đồng, vượt 14,2% so với dự toán. Bội chi bằng 6,9% GDP, trong giới hạn được Quốc hội cho phép.

Tính đến 31-12-2009, dư nợ Chính phủ (bao gồm cả nợ công trái giáo dục và trái phiếu Chính phủ) bằng 42% GDP; nợ ngoài nước của quốc gia bằng 39% GDP, đảm bảo an ninh tài chính quốc gia.

Báo cáo nêu rõ: Sau khi Quốc hội quyết định các nhiệm vụ thu, chi ngân sách nhà nước trong năm 2009, do tình hình khủng hoảng kinh tế - tài chính thế giới, kinh tế trong nước suy giảm mạnh, GDP quý I chỉ tăng 3,14%. Chính phủ đã trình Ủy ban Thường vụ Quốc hội và Quốc hội các biện pháp chống suy giảm kinh tế. Trên cơ sở đó, Quốc hội đã ban hành Nghị quyết số 32/2009, trong đó điều chỉnh một số chỉ tiêu quan trọng. Theo chỉ tiêu đã điều chỉnh, GDP năm 2009 là 5%; bội chi ngân sách không quá 7%; đồng thời, Chính phủ được phép phát hành bổ sung 20.000 tỷ đồng trái phiếu để tăng chi vốn đầu tư xây dựng cơ bản. Như vậy, tổng số các khoản thu chi qua ngân sách nhà nước lên tới 66.960 tỷ đồng.

Các bộ, cơ quan trung ương và địa phương đã thực hiện điều hành chi ngân sách bám sát nhiệm vụ chi theo dự toán đã được Quốc hội quyết định; đồng thời tập trung nguồn lực ngân sách tăng thêm so với dự toán để thực hiện mục tiêu ngăn chặn suy giảm kinh tế, ổn định kinh tế vĩ mô, duy trì tăng trưởng kinh tế ở mức hợp lý và bổ sung kinh phí thực hiện các chính sách an sinh xã hội.

Thẩm tra bản Báo cáo của Chính phủ, đa số ý kiến Thường trực Uỷ ban Tài chính - Ngân sách cho rằng: Các chính sách tài khoá, tiền tệ năm 2009 đã đem lại kết quả tích cực; kinh tế phục hồi, đạt tốc độ tăng trưởng khá và tăng được nguồn lực đầu tư phát triển; bảo đảm ổn định kinh tế vĩ mô và kiềm chế lạm phát, tạo môi trường thuận lợi cho phát triển kinh tế - xã hội; thực hiện có kết quả việc bảo đảm an sinh xã hội, quan tâm chăm lo cho người nghèo, các đối tượng chính sách, những vùng khó khăn. Bên cạnh những mặt tích cực, chính sách tài khoá năm 2009 vẫn nổi lên một số vấn đề cần được lưu ý để rút kinh nghiệm:

Một là, về chính sách miễn, giảm, giãn thuế.

Năm 2009, chúng ta đã thực hiện miễn, giảm thuế 40.683 tỷ đồng, giãn thuế 19.199 tỷ đồng. Việc thực hiện chính sách miễn, giảm, giãn thuế nói chung đã có tác động kích thích sản xuất phát triển, khuyến khích tiêu dùng, góp phần quan trọng thực hiện mục tiêu chống suy giảm kinh tế. Tuy nhiên, Thường trực Uỷ ban Tài chính - Ngân sách cho rằng:

Chủ trương giảm 30% thuế thu nhập doanh nghiệp phải nộp quý IV/2008 và của năm 2009, với số tiền thuế được giảm là 5.078 tỷ đồng. Trong thực tế, chính sách này còn mang tính bình quân, chỉ tác động đến doanh nghiệp có thu nhập, có lãi, còn nhiều doanh nghiệp sản xuất, kinh doanh gặp khó khăn kinh doanh thua lỗ cần được hỗ trợ nhưng không được hưởng chính sách ưu đãi này, nhất là với doanh nghiệp nhỏ và vừa, nên chưa bảo đảm tính công bằng và mục tiêu của chính sách.

Thực hiện giảm thuế GTGT đầu ra đối với 19 nhóm hàng hoá, dịch vụ năm 2009 với số tiền thuế được giảm khoảng 25.507 tỷ đồng nhằm mục tiêu kích thích tiêu dùng. Việc giảm thuế GTGT đối với một số hàng hoá, dịch vụ đã tạo thuận lợi hơn cho doanh nghiệp nhập khẩu hàng hoá, giảm giá bán để nâng cao sức cạnh tranh trong xuất khẩu, giảm gánh nặng về vốn cho doanh nghiệp. Mặc dù vậy, khi thực hiện chính sách còn khó khăn và hiệu quả chưa cao.

Theo Quyết định số 58/2009/QĐ-TTg đã thực hiện giảm 50% lệ phí trước bạ cho xe ô tô chở người dưới 10 chỗ ngồi số tiền 3.366 tỷ đồng. Bên cạnh tác dụng kích thích tiêu dùng để thúc đẩy các doanh nghiệp lắp ráp ô tô trong nước phát triển, có ý kiến cho rằng, chính sách này cũng chưa thật hợp lý, vì vô hình chung, Nhà nước đã hỗ trợ một cách gián tiếp cho một nhóm người có thu nhập cao, đồng thời khuyến khích làm tăng kim ngạch nhập khẩu nhóm hàng này.

Qua thực hiện các chính sách miễn, giảm thuế, nhiều ý kiến trong Thường trực Uỷ ban Tài chính - Ngân sách cho rằng, để khuyến khích tiêu dùng và thuận lợi trong quá trình quản lý thuế thì việc miễn giảm thuế cần được cân nhắc, tính toán thận trọng, xác định rõ trọng tâm cần khuyến khích, không cào bằng và chỉ nên áp dụng đối với khoản thuế trực thu, không nên áp dụng chính sách miễn, giảm đối với thuế gián thu; có ý kiến đề nghị có thể áp dụng bằng các giải pháp phi thuế quan (chính sách tín dụng, hỗ trợ lãi suất…) để hỗ trợ, tạo điều kiện cho doanh nghiệp hoạt động sản xuất kinh doanh, đồng thời không ảnh hưởng tới thu NSNN, dễ quản lý, kiểm soát và giám sát.

Hai là, đối với các giải pháp kích cầu đầu tư

Thực hiện các giải pháp kích cầu đầu tư, năm 2009, chúng ta đã thực hiện kích cầu đầu tư khoảng 76 nghìn tỷ đồng. Qua thực hiện chính sách kích cầu đầu tư, tổng vốn đầu tư toàn xã hội năm 2009 đạt 708,8 nghìn tỷ đồng, tăng khoảng 15% so với năm 2008 và bằng 42,7% GDP. Nhiều dự án, công trình được đẩy nhanh tiến độ hoàn thành đưa vào sử dụng đã phát huy hiệu quả trong phát triển kinh tế, thực hiện an sinh xã hội và xoá đói giảm nghèo ở các địa phương. Bên cạnh mặt tích cực đã bộc lộ những bất cập như: nhiều dự án chưa được chuẩn bị tốt, chưa căn cứ vào khả năng ngân sách, chưa có cơ chế quản lý, cơ chế trách nhiệm phù hợp, nên không ít trường hợp điều chỉnh tổng mức đầu tư quá lớn do mở rộng quy mô dự án, bổ sung nhiều hạng mục không đúng mục tiêu của chương trình, đầu tư dàn trải, nợ đọng lớn và tăng số công trình dở dang, tạo áp lực đối với ngân sách trung ương trong cân đối, bố trí nguồn vốn thực hiện giai đoạn tới...

Ba là, đối với chính sách hỗ trợ lãi suất.

Thực hiện các quyết định của Thủ tướng Chính phủ về hỗ trợ lãi suất tín dụng cho các tổ chức cá nhân vay vốn để sản xuất kinh doanh, đến 31/12/2009, dư nợ cho vay hỗ trợ lãi suất là 385.681 tỷ đồng, số tiền phải hỗ trợ lãi suất là 11.178 tỷ đồng, Ngân hàng nhà nước đã chuyển tiền hỗ trợ lãi suất cho các Ngân hàng thương mại, công ty tài chính 6.218 tỷ đồng (tương đương 363,8 triệu USD). Dự kiến đến hết năm 2011, Ngân hàng nhà nước sẽ sử dụng số tiền khoảng 16.000 tỷ đồng để thực hiện chính sách này. Cơ chế hỗ trợ lãi suất là giải pháp kích thích kinh tế quan trọng của nhà nước, được sự nhất trí, ủng hộ và đồng thuận cao, tạo điều kiện cho doanh nghiệp, hộ sản xuất giảm chi phí vay vốn, giảm giá thành sản phẩm, tăng khả năng cạnh tranh, tạo việc làm và ổn định sản xuất, góp phần ngăn chặn suy giảm kinh tế.

Tuy nhiên, chính sách hỗ trợ lãi suất năm 2009 mới tác động trên phạm vi hẹp, chưa thực sự bình đẳng giữa các đối tượng được hỗ trợ theo dự kiến, còn thiếu trọng tâm, trọng điểm; trong thực tế đã cho vay cả doanh nghiệp thừa vốn, sử dụng vốn sai mục đích, cho vay trùng lắp đối tượng, các doanh nghiệp vừa và nhỏ tiếp cận nguồn vốn này còn hạn chế. Việc mở rộng về đối tượng, kéo dài thời gian là chưa thực sự hợp lý, trong khi với mục tiêu kích cầu chỉ trong ngắn hạn, nhưng dự kiến phải kéo dài đến 2012 mới hoàn thành và kết thúc chương trình cho vay này. Không ít trường hợp lợi dụng chính sách để trục lợi, vay vốn hỗ trợ lãi suất rồi chuyển sang tiền gửi. Mặt khác, với số lượng lớn và trên diện rộng cho nên công tác kiểm tra, thanh tra, giám sát không theo kịp việc triển khai chính sách; việc triển khai đồng thời nhiều cơ chế hỗ trợ lãi suất cùng với thực thi chính sách tài khóa nới lỏng trong thời gian dài đã tạo khó khăn cho việc kiểm soát nhập siêu, kiểm soát lạm phát. Cơ chế cho vay hỗ trợ lãi suất đối với lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn theo Quyết định số 497/QĐ-TTg và Quyết định số 443/QĐ-TTg còn chưa đạt hiệu quả như mong muốn.

Bốn là, về thực hiện các chính sách an sinh xã hội.

Thực hiện chủ trương đảm bảo an sinh xã hội, năm 2009, các Bộ, ngành và địa phương đã tăng chi để thực hiện các chính sách an sinh xã hội trên 20.000 tỷ đồng. Các chính sách an sinh xã hội đã góp phần ổn định và cải thiện đời sống nhân dân, đặc biệt là người nghèo, đồng bào vùng dân tộc thiểu số, vùng sâu, vùng xa. Đến cuối năm 2009, tỷ lệ hộ nghèo cả nước giảm xuống còn khoảng 11% vượt mức kế hoạch đề ra là 12%.

Bên cạnh kết quả đạt được thì việc triển khai nhóm giải pháp đảm bảo an sinh xã hội còn gặp nhiều khó khăn. Số hộ tái nghèo và nghèo còn nhiều, nhất là vùng dân tộc thiểu số. Việc khắc phục hậu quả thiên tai và thực hiện một số chế độ an sinh xã hội ở một vài nơi còn triển khai chậm và còn để xảy ra tiêu cực. Nhiều ý kiến trong Thường trực Uỷ ban Tài chính - Ngân sách cho rằng, mức và cách hỗ trợ người nghèo là vấn đề cần quan tâm vì trong thời gian qua việc hỗ trợ người nghèo chưa có sự phối hợp chặt chẽ giữa các tổ chức chính trị - xã hội trên cùng một địa bàn; thực hiện nhiều chính sách nhưng không có sự kết hợp với nhau; chưa có chính sách thoát nghèo bền vững, còn tạo ra tâm lý trông chờ, ỷ lại vào nhà nước, không tích cực và chủ động vươn lên thoát nghèo.

Năm là, Quốc hội cho phép bội chi NSNN tăng từ 4,82% GDP lên không quá 7% GDP chỉ trong trường hợp giảm thu, song trong thực tế thì thu ngân sách không giảm mà còn vượt thu lớn so với dự toán (64.886 tỷ đồng), trong khi bội chi ở mức 6,9%GDP (thấp hơn 0,1% so với mức trần Quốc hội cho phép), với số tiền tăng thêm là 28.574 tỷ đồng đã đẩy nợ Chính phủ tăng lên 42% GDP (số báo cáo tại kỳ họp thứ 6 Quốc hội khoá XII là 40%GDP). Về vấn đề này, trong báo cáo tiếp thu, giải trình của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội tại kỳ họp thứ 6 Quốc hội khoá XII đã đồng thuận về mặt nguyên tắc và đề nghị Quốc hội giao cho Uỷ ban Thường vụ Quốc hội trên cơ sở Tờ trình của Chính phủ, xem xét, quyết định khoản tăng chi này. Trong thực tế, Chính phủ cũng đã ứng chi 34.190 tỷ đồng; trong đó đề nghị tăng chi đồng thời thu hồi tạm ứng 28.574 tỷ đồng, số còn lại, một phần đã được xử lý qua nguồn tăng thu của năm 2009. Tuy nhiên, đến nay, mặc dù Chính phủ có một số lần báo cáo ở mức độ khác nhau, nhưng chưa có Tờ trình chính thức về vấn đề này với Uỷ ban thường vụ Quốc hội và cũng chưa có văn bản pháp lý nào cho phép sử dụng nguồn tăng chi này. Thường trực Uỷ ban Tài chính - Ngân sách cho rằng, trong bối cảnh chống suy giảm kinh tế, việc tăng chi cho đầu tư XDCB là hợp lý, tuy nhiên Chính phủ cần báo cáo với Uỷ ban Thường vụ Quốc hội về vấn đề này.

Thực hiện chính sách tài khoá và chính sách tiền tệ nới lỏng để ngăn chặn đà suy giảm kinh tế cũng đã gây áp lực đến mặt bằng giá, tạo nguy cơ lạm phát cao. Đến nay, nguy cơ này đã bộc lộ dẫn tới tình trạng lạm phát hai con số trong năm 2010 và năm 2011. Thường trực Uỷ ban Tài chính - Ngân sách cho rằng, những mặt tích cực và hạn chế của chính sách kinh tế nêu trên là bài học kinh nghiệm cho việc ban hành và thực thi chính sách hiện nay, cũng như sau này để nền kinh tế Việt Nam phát triển nhanh và bền vững.

Cũng trong buổi sáng nay, Ủy ban Thường vụ Quốc hội đã cho ý kiến về dự án Pháp lệnh quản lý, sử dụng vũ khí, vật liệu nổ và công cụ hỗ trợ. Tiếp thu ý kiến của Ủy ban Thường vụ Quốc hội tại phiên họp thứ 39, Dự thảo Pháp lệnh quản lý, sử dụng vũ khí, vật liệu nổ và công cụ hỗ trợ sau khi tiếp thu, bổ sung, chỉnh lý gồm 6 chương, 40 điều (Dự thảo Pháp lệnh cũ gồm 41 điều), tập trung vào các vấn đề phạm vi điều chỉnh; quản lý, sử dụng vật liệu nổ; nghiên cứu, sản xuất, chế tạo, sửa chữa vũ khí quân dụng, vũ khí thể thao; đối tượng được trang bị vũ khí quân dụng, vũ khí thô sơ, công cụ hỗ trợ; vấn đề cá nhân sở hữu súng, đạn.

Về phạm vi áp dụng, trong dự thảo bổ sung Chính phủ đã tiếp thu, chỉnh lý theo hướng không áp dụng trong tình trạng khẩn cấp về quốc phòng, tình trạng khẩn cấp về an ninh quốc gia, tình trạng khẩn cấp về trật tự, an toàn xã hội hoặc tình trạng chiến tranh. Tuy nhiên, Ủy ban Quốc phòng và An ninh lại đề nghị tách quy định về áp dụng pháp luật thành một điều riêng và thể hiện rõ: “Khi có tình trạng chiến tranh, tình trạng khẩn cấp về quốc phòng, tình trạng khẩn cấp về an ninh quốc gia và trật tự, an toàn xã hội, việc quản lý, sử dụng vũ khí, vật liệu nổ, công cụ hỗ trợ được thực hiện theo quy định của pháp luật về tình trạng chiến tranh, tình trạng khẩn cấp. Khi có nguy cơ đe dọa an ninh quốc gia, nhưng chưa đến mức ban bố tình trạng khẩn cấp, việc quản lý, sử dụng vũ khí, vật liệu nổ, công cụ hỗ trợ thực hiện theo quy định của pháp luật về an ninh quốc gia”. Về vấn đề này, một số Ủy viên bày tỏ băn khoăn đặt câu hỏi: Trong tình trạng khẩn cấp, hay tình trạng chiến tranh có quy định cụ thể về phạm vi áp dụng không?; Đồng thời đề nghị gộp cả hai nội dung trên vào Pháp lệnh để áp dụng cả trong chiến tranh và thời bình.

Chiều nay, Ủy ban Thường vụ Quốc hội cho ý kiến về Chương trình xây dựng luật, pháp lệnh của Quốc hội năm 2012./.


Theo ĐCSVN