Dạy học ở lưng chừng núi

(CTG) 6 giờ sáng, trong tiếng gà eo óc gáy râm ran, thầy giáo Hà Văn Son dậy sớm, lúi húi nhóm lửa nấu cơm cho học trò. Bên ngoài sương mù còn bảng lảng trên những nóc nhà người Mông cheo leo vách núi.




Hết giờ học, đến bữa cô giáo Lường Thị Cúc lo bữa trưa cho học trò - Ảnh: Đ.Đ.


“Mùa này còn đỡ. Mùa đông thầy cô phải dậy nấu nước cho các em rửa mặt buổi sáng, tắm rửa buổi chiều” - thầy Son tâm sự. Ở điểm Trường tiểu học bản Háng Gàng (xã Pá U, huyện Trạm Tấu, tỉnh Yên Bái) có ba thầy giáo và một cô giáo trụ lại nhiều năm nay. Đây là bản gian khó nhất, xa nhất và cũng là nghèo nhất ở huyện vùng cao Trạm Tấu này.

Thầy cô kiêm đầu bếp

Ăn cơm với... cơm!

Hôm chúng tôi đến, bữa ăn các cháu có thêm chút cá hộp và mì gói. Hỏi các cháu “hôm nay ăn cơm với gì?”, nhiều cháu nhanh nhảu: “Ăn cơm có cá!”. “Thế hôm qua ăn cơm với gì?”. “Ăn cơm với rau!”. “Thế hôm trước ăn cơm với gì?”. “Ăn cơm với... cơm!”. Nghe mà ứa nước mắt!

Cô Cúc tâm tình: “Quanh năm suốt tháng như thế anh ạ. Chỉ hôm nào có người vào thăm thì cô trò mới có thêm chút thức ăn”.

Cô Lường Thị Cúc, thầy Hà Văn Hoan và thầy Mùa A Phua mỗi người một việc: Phua lấy nước cho học sinh rửa mặt, Cúc và Hoan rửa đống chén bát của thầy trò ăn đêm qua chưa kịp dọn vì tối quá mà ở đây không có điện. Không có điện nên cũng chẳng có tivi. Vì vậy chẳng mấy khi dân bản được thấy người lạ. Khi chúng tôi đến cả bản kéo lại coi, chỉ trỏ và cười. Cô Cúc dịch lại: “Họ nói anh là người... nước ngoài vì họ chưa từng nghe giọng miền Nam”.

7 giờ cơm nước đã xong. Một nồi to cơm gạo nương đỏ quạch, hạt gạo bung to bằng chiếc đầu đũa, nở toét, phải nhai thật nhuyễn mới có vị ngọt. Một nồi canh rau cải Mông lõng bõng nước, có thêm mấy cọng mì gói chúng tôi mang vào từ hôm qua. Trước đó ở ngoài huyện, khi chuẩn bị vào làng, anh Mai Thanh Hải - một người rất nổi tiếng với các chương trình cho học sinh biên giới như Áo ấm biên cương - giật tay áo: nhớ mua mì gói, thịt hộp vào cho các thầy cô và học trò.

Đúng 7g30 tất cả ngăn nắp vào lớp học. Giữa núi rừng tiếng ê a vang lên ấm áp. Không giống những gì chúng tôi tưởng tượng: trường lớp tuy khó nghèo xộc xệch, học trò mũi dãi thò lò, chân trần tới lớp nhưng bàn ghế ngăn nắp, học trò ngồi thẳng thớm trang nghiêm, thầy cô đi đứng mực thước, chữ trên bảng đẹp như in. Thầy Phua cho biết việc học được đưa vào nền nếp như thế này cũng gian nan lắm, không phải một, hai năm mà làm được. Tuy ngoan thế nhưng do nhiều lý do - khác biệt ngôn ngữ, điều kiện học cụ và khả năng tiếp thu... - nên có em học... ba năm một bài chưa thuộc. Anh Mai Thanh Hải đi cùng cười như mếu: cũng lớp này, năm ngoái vào cũng nghe các em đọc bài này, cứ phải nhồi tới nhồi lui như thế!

Trích tiền lương cho học trò

Thâm niên nhất ở điểm Háng Gàng là thầy Mùa A Phua. Phua năm nay 37 tuổi, đã dạy học 18 năm. Riêng điểm trường này thầy Phua đã dạy tám năm, mức lương hiện cao nhất ở điểm trường, 6 triệu đồng/tháng. Các thầy cô còn lại ở mức hơn 2 triệu đồng/tháng. Phua cũng là người Mông, nhà cách điểm trường gần hai giờ đi bộ. Anh tếu táo: “Nhưng đó là hai giờ người Mông mình đi, chứ các anh đi chắc phải mất gấp hai lần như thế!”.

Thầy Son, thầy Hoan đều ở huyện Văn Chấn, lên đây đã được hai năm, đều dạy lớp 2 và 3. Tiếng là trẻ nhưng Son đã 28 tuổi, cô Cúc 27. Thầy Son trẻ nhất, vừa 21. Cô Cúc dạy được ba năm, chuyên lo các cháu mầm non. Những công việc nấu ăn cho trẻ, tắm giặt cho chúng không hề có trong giáo trình. Thầy Son cho biết: “Những em ở nội trú phải đóng 30.000 đồng mỗi tháng nhưng nhiều em gia đình không có tiền đóng, chẳng lẽ để các em chịu đói, thế là thầy cô phải trích lương góp thêm vào. Giấy bút, vở nháp các em thiếu, thầy cô cũng rút tiền túi ra... Không như thế học trò sẽ bỏ học, thương lắm!”.

Cô Cúc khoe “em đã có người yêu”, chàng ở dưới thị xã Nghĩa Lộ, vài tuần họ gặp nhau một lần. Có khi chàng lặn lội vào tận điểm trường, có khi nàng lúc thúc cuốc bộ ra. Mỗi cuối tuần vào thứ sáu họ phải về trường để họp hội đồng. Chỉ có một cách: cuốc bộ, mỗi lượt đi 16km. Gặp dốc ngược thì trèo lên, gặp vực sâu lần xuống. Mỗi lượt đi mất 7-8 tiếng đồng hồ. Đến trưởng bản Mùa A Páo cũng phải lắc đầu về con đường: bản có trồng được cân ngô bao thóc cũng chịu, không thể mang ra huyện bán. Hiện anh Mai Thanh Hải đang vận động xây điểm trường này cho các thầy cô, đã có dự án khoảng 300 triệu đồng nhưng cái khó nhất, anh gãi đầu gãi tai mà cả cán bộ ở huyện cũng đang rất lo: làm sao vận chuyển vật liệu vào...

Mùa này trên đường vào bản, dù gian nan vẫn thỉnh thoảng gặp những dải ruộng bậc thang quanh co trên sườn núi. Đẹp lắm nhưng ở đó có bao nhiêu là mồ hôi đổ xuống. Như những thầy cô giáo Háng Gàng: bao nhiêu lời lẽ ca ngợi sự đẹp đẽ của họ cũng không thể nói hết những hi sinh thầm lặng và gian nan của họ mỗi ngày.

Điện thoại ở trên cao

Ở đây khó bắt được sóng điện thoại. Để bắt sóng hú họa, các thầy cô phải treo chiếc điện thoại trên cao trước hiên nhà, gặp khi đẹp trời thì nhận được tin nhắn, may mắn hơn nhận được điện thoại. Nhưng điện thoại chỉ thường nhận được lúc về đêm, tầm từ sau 7-8 giờ tối. Người hay quẩn quanh với chiếc điện thoại sau giờ dạy là cô Cúc vì ở đây duy nhất cô có người yêu. Đôi khi chỉ mới “em đây...” điện thoại đã tắt ngóm!

 

Theo TT