
Do tính phức tạp lộn xộn của giao thông Việt Nam nên rất khó áp dụng ITS
Cũ người mới ta
Từ thập kỷ 80 của thế kỷ 20, nhiều quốc gia trên thế giới đã bắt đầu nghiên cứu về ITS. Hiện nay tại các nước công nghiệp phát triển hệ thống ITS rất phổ biến. Nhật Bản là một ví dụ. Hệ thống ITS ở Nhật chú trọng đến vấn đề chống ùn tắc giao thông. Trong các thành phố hệ thống điều khiển tín hiệu đèn giao thông được quan tâm nhiều hơn trong khi trên trên các đường cao tốc sự chú ý tập trung vào hệ thống thông tin về tình trạng giao thông, hướng dẫn phân tuyến bằng các biển báo mềm (variable message board).
Bản chất của ITS là ứng dụng các thành tựu của các công nghệ mới như điện tử, thông tin, tự động hoá... vào việc xây dựng các hệ thống phục vụ trao đổi thông tin giữa ba thành tố chính của hệ thống giao thông là người, xe và đường nhằm tối ưu hoá hiệu quả khai thác cơ sở hạ tầng sẵn có, tăng cường an toàn giao thông, cải thiện môi trường và tăng tính tiện nghi cho con người khi tham gia giao thông.
Hệ thống ITS dựa trên các thiết bị đo lường, thu thập thông tin giao thông, xử lý thông tin và truyền tải đến người tham gia giao thông. Các thiết bị đo lường thông tin giao thông bao gồm các thiết bị đếm xe (sử dụng nguyên lý mạch từ, siêu âm, hồng ngoại, …), đo tốc độ xe (sử dụng nguyên lý radar, sóng vô tuyến, …). Gần đây trên thế giới xuất hiện loại thiết bị đếm xe mới, đó là sử dụng camera. Ngoài ra để giám sát tình hình giao thông một cách trực tuyến thường sử dụng hệ thống camera truyền hình (CCTV).
|
|
Khoảng 10 năm nay khái niệm ITS được đưa vào Việt Nam và tạo ra hai luồng ý kiến trong xã hội nói chung và ngành giao thông – vận tải nói riêng. Luồng ý kiến thứ nhất cho rằng giao thông thông minh chỉ dành cho các nước đã phát triển với nền tảng cơ sở hạ tầng hoàn chỉnh như Mỹ, Nhật Bản, châu Âu. Việt Nam chúng ta hãy khoan không bàn đến vì ITS chưa mang lại hiệu quả gì. Luồng ý kiến thứ hai cho rằng trong thế giới phẳng ngày nay chúng ta chỉ cần mang nguyên xi hệ thống ITS có sẵn ở nước ngoài về lắp đặt ở Việt Nam.
Thông minh theo kiểu Việt
Các nhà khoa học ở Khoa Điện – Điện tử Trường Đại học Giao thông Vận tải Hà Nội đi theo hướng thứ ba – áp dụng sáng tạo, có sự điều chỉnh, đổi mới các thiết bị của nước ngoài cho phù hợp với điều kiện của Việt Nam. Trong 5 năm trở lại đây họ đã thực hiện hai đề tài khoa học cấp Nhà nước. Đề tài thứ nhất mang nghiên cứu hệ thống giao thông thông minh cho thành phố Hà Nội. Đề tài thứ hai có tên gọi “Nghiên cứu thiết kế, chế tạo các thiết bị phương tiện và hệ thống tự động, kiểm tra, giám sát, điều hành phục vụ cho an toàn giao thông đường bộ”. Đề tài này tập trung nghiên cứu áp dụng hệ thống giao thông thông minh vào đường bộ ở Việt Nam.
Phó Giáo sư, Tiến sĩ Lê Hùng Lân, Trưởng khoa Điện – Điện tử, Trường Đại học Giao thông Vận tải Hà Nội, là người chủ nhiệm hai đề tài nói trên. Ông chia sẻ: “Khi nghiên cứu về vấn đề này chúng tôi thấy: Một là mình phải học tập một cách thật nghiêm túc những kết quả nghiên cứu của nước ngoài, cơ sở khoa học của nó là gì. Cái thứ hai nữa là phải tìm hiểu được ra đặc thù của giao thông Việt Nam và trên cơ sở đặc thù đó để làm sao có được những cải tiến hay những thay thế phù hợp để hệ thống đó có thể áp dụng được vào Việt Nam để phát huy tính khoa học, hiệu quả về mặt khoa học của nó”.
|
|
Mục tiêu của nhóm nghiên cứu đề tài là xây dựng thiết kế tổng thể mô hình hệ thống quản lý, giám sát và điều hành giao thông đường bộ Việt Nam đạt trình độ quốc tế và phù hợp với điều kiện thực tế trong nước. Mục tiêu cuối cùng là góp phần giảm thiểu tai nạn, ách tắc giao thông và nâng cao hiệu quả khai thác, an toàn giao thông. Một mục tiêu nữa là chế tạo được các thiết bị đầu cuối và các thiết bị điều hành trung tâm trong hệ thống ITS, đảm bảo khả năng thay thế từng phần cũng như thay thế đồng bộ các thiết bị nhập ngoại.
Theo nhóm các tác giả đề tài, việc áp dụng cứng nhắc hệ thống ITS của nước ngoài về chẳng những không phát huy tác dụng mà còn gây “hiệu ứng ngược”. Thiết bị đếm xe ở nước ngoài chỉ phù hợp với dòng xe thuần nhất là ô tô, không phân biệt được ô tô với xe máy, xe đạp. Thêm vào đó trong nhiều trường hợp các phương tiện giao thông ở Việt Nam không đi theo đúng làn đường, lạng lách làm “nhiễu” thông tin nên thiết bị đếm xe bị nhầm lẫn, đưa ra định kỳ đèn xanh, đèn đỏ không phù hợp với thực tế.
Phó Giáo sư, Tiến sĩ Lê Hùng Lân cho biết: “Chúng tôi đã làm được mấy sản phẩm, trong đó tiêu biểu là hệ thống đếm xe, hệ thống giám sát giao thông bằng camera. Đây là một hệ thống tiên tiến trên thế giới, thế nhưng trên thế giới chỉ có dòng xe ô tô thuần nhất nên rất dễ. Còn ở Việt Nam thì do dòng xe chạy hỗn loạn như vậy thì không có một phương án đếm xe nào thực thi được.
![]() |
Nhưng chúng tôi đã chứng minh được bằng quay ảnh camera. Chúng tôi có thể giải quyết bài toán đếm xe, bài toán giám sát, tốc độ rồi thì giám sát xem chạy có đúng làn không…. Sản phẩm thứ hai là chúng tôi đưa ra những mẫu đếm xe bằng siêu âm, bằng hồng ngoại. Đường cao tốc là một địa chỉ mà chúng ta có thể áp dụng hệ thống giao thông thông minh vì dù sao trên đường cao tốc chủ yếu chỉ có một dòng xe là ô tô”.
Các sản phẩm của Trường Đại học Giao thông Vận tải Hà Nội đảm bảo được tính mới, tính độc đáo và tính sáng tạo. Tính mới là lần đầu tiên các chuyên gia ở Việt Nam đã nghiên cứu một cách có hệ thống hệ thống giao thông thông minh ITS. Tính độc đáo của các sản phẩm nói trên nằm ở chỗ đã đưa ra phương án thiết kế hệ thống tự động giám sát, thu thập dữ liệu giao thông trên cơ sở xử lý ảnh camera. Đây là phương án duy nhất có thể áp dụng cho dòng giao thông hỗn hợp, đa phương tiện, nhiều cấp tốc độ, không phân làn, không có giãn cách thích hợp ở Việt Nam.
Tính sáng tạo được thể hiện qua yếu tố là đã đưa ra cách giải quyết nhằm đạt được mục tiêu đặt ra của đề tài bằng con đường nghiên cứu ứng dụng ITS, đảm bảo phù hợp với xu hướng phát triển của thế giới và tính khả thi trong nước.
Các kết quả nghiên cứu của đề tài có ý nghĩa quan trọng trong việc nắm vững, làm chủ công nghệ ITS. Thứ nhất, đề tài có thể giúp các nhà quản lý hoạch định chính sách, mô hình, lộ trình phát triển ITS ở Việt nam.
Thứ hai, các sản phẩm ITS của Việt Nam trở thành đối trọng trong các dự án hợp tác nghiên cứu, xây dựng, triển khai các dự án ITS với các đối tác nước ngoài, khiến cho giá thầu giảm xuống.
Thứ ba, nếu chế tạo được một số thiết bị ITS thì các nhà khoa học Việt Nam sẽ chủ động trong việc thiết kế, chế tạo các hệ thống, thiết bị ITS, thay thế nhập ngoại.
Thứ tư, ứng dụng sản phẩm của đề tài cho phép nâng cao hiệu quả quản lý, điều hành giao thông, tăng an toàn, giảm thiểu tai nạn, ách tắc giao thông.
Nhóm tác giả đề tài kiến nghị với Bộ Khoa học và Công nghệ được tiếp tục nghiên cứu, hoàn thiện các đề xuất về kiến trúc hệ thống giao thông thông minh Việt Nam.
Các sản phẩm do Trương ĐH Giao thông vận tải Hà Nội chế tạo, trong đó có máy đếm xe, thiết bị đo tốc độ, hệ thống giám sát giao thông, cần được hoàn thiện, chuyển giao công nghệ và áp dụng ngay vào thực tiễn dưới dạng dự án sản xuất thử nghiệm.
Theo Tầm Nhìn


















